Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (GII) đã trở thành chỉ dấu quan trọng trong việc đo lường đổi mới sáng tạo hàng năm trên thế giới. Bắt đầu được đánh giá từ năm 2007, trong những năm gần đây, GII của Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng. Để có góc nhìn sát hơn về tình hình đổi mới sáng tạo tại các địa phương, gần đây, Bộ KH&CN vừa xây dựng Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp tỉnh (PII), dự kiến sẽ triển khai trên toàn quốc trong năm 2023.
Chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia
Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (GII), được Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) và các đối tác thực hiện hàng năm, là chỉ số đánh giá năng lực và kết quả đổi mới của các nền kinh tế thế giới, đến nay, GII đã trở thành nền tảng trong việc hoạch định chính sách kinh tế của các quốc gia. Bộ chỉ số tính toán GII năm 2022 gồm 81 tiêu chí, sắp xếp theo 5 nhóm trụ cột đầu vào (gồm: (1) Thể chế của nền kinh tế - 7 tiêu chí; (2) Nguồn nhân lực và năng lực nghiên cứu - 12 tiêu chí; (3) Kết cấu hạ tầng - 10 tiêu chí; (4) Sự phát triển của thị trường - 10 tiêu chí; và (5) Sự phát triển của doanh nghiệp - 15 tiêu chí) và 2 nhóm trụ cột đầu ra (gồm: (6) Sản phẩm tri thức và công nghệ - 14 tiêu chí; (7) Sản phẩm sáng tạo - 13 tiêu chí).
Các nguồn dữ liệu để tính toán chỉ số GII hoàn toàn từ số liệu thứ cấp, là kết quả đã được thu thập và phân tích trực tiếp hoặc đã được các tổ chức quốc tế tính toán, tổng hợp. Có khoảng 30 nguồn dữ liệu/cơ sở dữ liệu được sử dụng để lấy thông tin, số liệu phục vụ tính toán GII. Trong đó, các cơ sở dữ liệu của Ngân hàng thế giới (WorldBank) và các tổ chức của Liên hợp quốc là nhiều nhất. Ngoài ra, một số cơ sở dữ liệu của các tổ chức nghiên cứu độc lập hoặc kết quả nghiên cứu, khảo sát của một số tổ chức khác cũng được khai thác, sử dụng (tùy thuộc vào số liệu sẵn có và tình hình cập nhật cập nhật tốt hơn của từng quốc gia/nền kinh tế). Với mỗi chỉ số cụ thể và với mỗi quốc gia/nền kinh tế, số liệu có sẵn của năm gần nhất sẽ được đưa vào phân tích. Nếu một quốc gia/nền kinh tế nào đó không có số liệu cho một chỉ số nhất định, hay số liệu có sẵn quá cũ, thì chỉ số đó không được tính (không có – n/a). Việc thiếu số liệu chỉ số thành phần sẽ ảnh hưởng đến việc tính toán điểm số tổng hợp của các nhóm chỉ số, điểm số tổng hợp của các nhóm vấn đề lớn, và do đó, cũng ảnh hưởng đến chỉ số GII.
Cũng do việc tính các chỉ số thành phần của GII sử dụng số liệu thứ cấp, nên việc điều chỉnh phương pháp tính toán các chỉ số thành phần có thể sẽ ảnh hưởng đến kết quả tổng hợp chỉ số nhóm và chỉ số GII của một quốc gia. Vì vậy, trong một số trường hợp, nhóm chuyên gia thực hiện Báo cáo GII sẽ phải điều chỉnh lại phương pháp tính toán chỉ số thành phần, ví dụ như một số chỉ số của WIPO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Với mỗi một chỉ số thành phần sử dụng dữ liệu cứng, số liệu của quốc gia/nền kinh tế nào có giá trị cao nhất sẽ có điểm số cao nhất (là 100). Các quốc gia/nền kinh tế có các giá trị kế tiếp sẽ được quy đổi tương ứng (xếp theo giá trị của chỉ số tiếp theo), cho đến 0 (điểm số được tính đến mức hai số thập phân). Một vài trường hợp đặc biệt, người ta sử dụng chỉ số nghịch đảo, tức là giá trị của chỉ số càng thấp thì điểm số và thứ hạng càng cao. Thứ hạng của từng chỉ số được căn cứ vào điểm số, với mỗi một chỉ số, quốc gia/nền kinh tế nào có điểm số cao nhất được xếp hạng 1, điểm số thấp nhất sẽ xếp hạng cuối (ví dụ năm 2022 là hạng 132 – vì có 132 quốc gia/nền kinh tế tham gia xếp hạng). Các trường hợp không có số liệu thì sẽ không được tính điểm và xếp hạng. Do đó, cũng có thể với một số chỉ số, các quốc gia sẽ được xếp hạng từ 1 đến 45 hoặc từ 1 đến 85.
Đánh giá tầm quan trọng của chỉ số GII, từ năm 2017, cũng như nhiều nước trên thế giới, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số GII để xác định các điểm mạnh, điểm yếu của quốc gia, từ đó đưa ra các giải pháp, biện pháp cải thiện phù hợp và kịp thời xây dựng, ban hành các chính sách liên quan. Ngày 6/2/2017, Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP được Chính phủ thông qua nhằm tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020. Trong đó, Chính phủ đã phân công cụ thể cho các bộ và cơ quan chủ trì cải thiện các chỉ số tính toán GII quốc gia (Bảng 1).
Bảng 1. Nhiệm vụ của các bộ, cơ quan, địa phương về nâng cao năng lực ĐMST
Trong 5 năm trở lại đây, GII của Việt Nam tương đối ổn định.
Thứ hạng GII của Việt Nam, giai đoạn 2007-2022. (Nguồn: Tổng hợp từ GII 2007-2022)
Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp tỉnh
Trong 15 kỳ đánh giá, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo (ĐMST) cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Việt Nam cũng là một trong số ít những quốc gia nhóm thu nhập trung bình thấp được WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về ĐMST nhanh nhất (cho dù thứ hạng năm 2022 có giảm nhẹ), cho thấy sự triển khai khá hiệu quả Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP vào thực tiễn.
Tuy nhiên, xét ở cấp độ địa phương, còn thấy rõ sự lúng túng trong việc tham gia thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện chỉ số GII. Đó là sự thiếu tương đồng về dữ liệu cấp quốc gia và cấp tỉnh; đánh giá theo quy chuẩn quốc tế có nhiều điểm chưa phù hợp với cấp địa phương; khác biệt còn thể hiện ở quy mô kinh tế - xã hội, về dân số, về đất đai, về cơ cấu kinh tế, về định hướng phát triển,... giữa các địa phương, khiến cho các địa phương không nắm được thực trạng mô hình phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và ĐMST của địa phương mình. Do đó, nhu cầu thiết kế bộ chỉ số ĐMST dành riêng cho địa phương để căn cứ vào đó có thể chỉ đạo điều hành tốt hơn, sát với thực tiễn hơn, là điều mà nhiều địa phương đang kiến nghị.
Gần đây, được sự hỗ trợ kỹ thuật của WIPO, trên cơ sở nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm xây dựng các bộ chỉ số cấp địa phương đã có trong nước (PCI, PAR, PAPI,…) và kinh nghiệm nước ngoài (trên thế giới mới chỉ có một số quốc gia xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương như Trung Quốc, Ấn Độ, Columbia, Mỹ..., trong đó, Ấn Độ và Columbia cũng dựa trên bộ GII của WIPO), Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng bộ chỉ số cấp địa phương theo 10 bước, như hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), hình thành bộ chỉ số tổng hợp, phù hợp với bối cảnh thực tiễn, đặc điểm của các địa phương ở Việt Nam.
Bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương của Việt Nam (PII) gồm có 51 chỉ số, cũng chia thành 7 trụ cột theo nguyên lý của bộ chỉ số GII (05 trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và ĐMST, bao gồm: (1) Thể chế - 7 chỉ số, (2) Nguồn nhân lực và nghiên cứu - 7 chỉ số, (3) Cơ sở hạ tầng - 5 chỉ số, (4) Trình độ phát triển của thị trường - 5 chỉ số; và (5) Trình độ phát triển kinh doanh - 11 chỉ số; 02 trụ cột đầu ra phản ánh kết quả tác động của khoa học, công nghệ và ĐMST vào phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm: (6) Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ - 10 chỉ số, (7) Tác động - 6 chỉ số).
Trong giai đoạn thu thập dữ liệu, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều buổi làm việc với các bộ, cơ quan Trung ương để thống nhất thu thập dữ liệu từ các cơ quan quản lý nhà nước (có 37/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các cơ quan quản lý nhà nước) và xây dựng tài liệu hướng dẫn và tập huấn cho các địa phương để thu thập các dữ liệu liên quan tại địa phương (có 14/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các địa phương). Quá trình thử nghiệm bộ chỉ số PII đã cho thấy, một số chỉ số theo thông lệ quốc tế hiện chưa được thống kê cả ở cấp quốc gia và địa phương. Vấn đề này sẽ cần phải khắc phục trong thời gian tới để việc đánh giá xác thực hơn.
Một ví dụ về triển khai tính toán chỉ số PII tại địa phương
Kết quả phân tích, đánh giá thử nghiệm chỉ số ĐMST địa phương tại 18/20 tỉnh thành tham gia (có 2/20 địa phương không có đủ dữ liệu nên không đưa vào danh sách đánh giá) cho thấy có phù hợp, tương đồng cao với đặc thù mô hình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Các địa phương thuộc nhóm dẫn đầu là các địa phương phát triển kinh tế - xã hội và có hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST mạnh mẽ. Ngược lại là các địa phương thuộc nhóm cuối. Trên cơ sở các thông tin chi tiết về xếp hạng của từng chỉ số, nhóm chỉ số, trụ cột và 5 điểm mạnh cùng 5 điểm yếu của mỗi địa phương, Bộ chỉ số PII sẽ giúp các địa phương nhận diện được các vấn đề cần chú trọng để có các chỉ đạo, điều hành thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và ĐMST, góp phần nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực cạnh tranh, năng lực ĐMST của địa phương và của quốc gia.
Được biết, trên cơ sở kết quả thử nghiệm thành công Bộ chỉ số PII năm 2022, Bộ Khoa học và Công nghệ đã kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép chính thức triển khai Bộ chỉ số PII trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023. Mong rằng Bộ chỉ số PII sẽ thực sự đóng góp hữu hiệu cho mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương trên cả nước.
Tuấn Kiệt
--------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo chính
[1] HL. Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. https://baotintuc.vn/xa-hoi/bo-chi-so-doi-moi-sang-tao-cap-dia-phuong-thuc-day-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-20230128104601135.htm
[2] Vân Anh. Năm 2023, Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) sẽ được đưa vào triển khai trên cả nước, hỗ trợ các địa phương có mục tiêu cụ thể trong phát triển kinh tế-xã hội dựa trên khoa học, công nghệ. https://vov.vn/xa-hoi/bo-chi-so-doi-moi-sang-tao-dia-phuong-se-trien-khai-rong-rai-trong-nam-2023-post999028.vov
[3] Tuấn Kiệt. Việt Nam và Chỉ số Đổi mới sáng tạo Toàn cầu. http://thongke.cesti.gov.vn/an-pham-thong-ke/thong-tin-chuyen-de-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao/1048-viet-nam-va-chi-so-doi-moi-sang-tao-toan-cau
[4] Chính phủ. Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP.
[5] WIPO. GII 2022.