Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, vấn đề an toàn lao động ngày càng được đặt ra như một yêu cầu cấp bách và toàn diện. Không chỉ đơn thuần là tuân thủ pháp luật, bảo đảm an toàn lao động chính là bảo vệ con người – yếu tố trung tâm của sự phát triển, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế - xã hội.

 

Theo Điều 3 của Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 (Luật số 84/2015/QH13), “an toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong trong quá trình lao động”. Tuy vấn đề an toàn lao động đã được quan tâm và luật hóa, nhưng những con số thống kê hàng năm cho thấy thực tế vẫn còn rất đáng lo ngại: chỉ tính riêng trong năm 2024, thống kê từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (cũ) cho thấy, cả nước xảy ra hơn 8.000 vụ tai nạn lao động, làm gần 8.500 người bị nạn, trong đó có trên 700 người tử vong và gần 1.700 người bị thương nặng. Thiệt hại vật chất do tai nạn lao động gây ra trên 42.500 tỷ đồng.

 

Tai nạn lao động không chỉ là nỗi đau của gia đình, mà còn là tổn thất dài hạn cho doanh nghiệp và xã hội. Đó là lý do vì sao đảm bảo an toàn lao động không thể chỉ là trách nhiệm của riêng Nhà nước, mà phải trở thành cam kết và chiến lược phát triển của mọi tổ chức sử dụng lao động.

 

Việt Nam đã có những bước quan trọng trong việc kiện toàn hệ thống pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Đầu tiên là Pháp lệnh Bảo hộ lao động - năm 1991 - văn bản chuyên ngành đầu tiên quy định hệ thống các nội dung về an toàn, vệ sinh lao động, từ trách nhiệm của người sử dụng lao động, quyền và nghĩa vụ của người lao động, đến công tác kiểm tra, xử lý vi phạm. Đến năm 1994, các quy định về an toàn lao động lần đầu được đưa vào Bộ luật Lao động, tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ người lao động. Qua các lần sửa đổi vào các năm 2002, 2006 và 2012, các nội dung liên quan đến điều kiện làm việc, chế độ bảo hộ, vệ sinh môi trường lao động liên tục được bổ sung, mở rộng.

 

Bước ngoặt quan trọng đến vào năm 2015, khi Luật An toàn, vệ sinh lao động chính thức được ban hành. Đây là văn bản pháp lý chuyên biệt, có hiệu lực rộng rãi và có giá trị cao hơn, quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc đánh giá rủi ro, huấn luyện an toàn, kiểm định thiết bị định kỳ. Đặc biệt, luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh, không chỉ với người lao động có hợp đồng mà cả với lao động không có hợp đồng – nhóm lao động tự do thường không được bảo vệ đầy đủ trước đây. Đồng thời, luật quy định cụ thể về bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp bắt buộc cho người lao động.

 

Tiếp đó, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 đã bổ sung nhiều nội dung liên quan đến an toàn lao động như thời giờ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, điều kiện làm việc an toàn, nghĩa vụ báo cáo tai nạn lao động… Những quy định này ngày càng tiệm cận với chuẩn mực lao động quốc tế, đồng thời tạo cơ sở để thực hiện hiệu quả các chính sách bảo vệ người lao động trong thực tiễn.

 

Để hiện thực hóa pháp luật vào đời sống, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm, ví dụ như: Nghị định 39/2016/NĐ-CP, quy định về kiểm soát yếu tố nguy hiểm, khai báo và điều tra tai nạn lao động, các biện pháp bảo vệ lao động đặc thù; Nghị định 44/2016/NĐ-CP, hướng dẫn công tác kiểm định kỹ thuật an toàn, huấn luyện an toàn vệ sinh lao động và quan trắc môi trường lao động; Nghị định 88/2020/NĐ-CP, quy định chi tiết về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc; Nghị định 145/2020/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động 2019 về điều kiện lao động, quan hệ lao động và công tác an toàn, vệ sinh tại nơi làm việc,...

 

Ở góc độ cơ quan quản lý chuyên ngành, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (cũ) cũng triển khai nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, như Thông tư 07/2016/TT-BLĐTBXH về tổ chức đánh giá nguy cơ rủi ro, tự kiểm tra, báo cáo, tổng kết về công tác an toàn; Thông tư 54/2016/TT-BLĐTBXH quy định 30 quy trình kiểm định kỹ thuật an toàn đối với máy móc, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động,... Ngoài ra, nhiều quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho từng ngành nghề, lĩnh vực như xây dựng, khai khoáng, hóa chất, điện lực,… đã được xây dựng và triển khai đồng bộ. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được tăng cường, với các chế tài xử lý nghiêm minh đối với hành vi vi phạm an toàn lao động.

 

Đáng ghi nhận là ít nhiều đã có sự chuyển biến trong nhận thức và hành động từ giới doanh nghiệp và khu vực nghiên cứu. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu không chỉ triển khai các đề tài khoa học về cải thiện môi trường làm việc, phòng ngừa rủi ro, bảo vệ sức khỏe nghề nghiệp, mà còn đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới (như AI, IoT, cảm biến thông minh,…) để phục vụ nhu cầu giám sát môi trường lao động theo thời gian thực. Ở khu vực doanh nghiệp, ngày càng nhiều đơn vị đã chủ động đầu tư vào công tác an toàn lao động. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là một trong những đơn vị đi đầu khi xây dựng bộ tiêu chuẩn “Văn hóa an toàn” nhằm bảo vệ người lao động an tâm sản xuất. Đến năm 2023, EVN đã có hơn 7.220 an toàn vệ sinh viên hoạt động tại các đơn vị thành viên trên toàn quốc. Tương tự, Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (trước đây là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), Vingroup,… cùng nhiều doanh nghiệp hàng đầu khác cũng đã có những triển khai huấn luyện an toàn lao động, kiểm tra định kỳ thiết bị và áp dụng hệ thống cảnh báo sớm về an toàn tại nơi làm việc.

 

Dù hệ thống pháp luật và các giải pháp quản lý đã được thiết lập tương đối đầy đủ, nhưng để đảm bảo an toàn lao động thực chất, theo các chuyên gia, cần phải xây dựng được văn hóa an toàn trong mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Muốn giảm thiểu tai nạn lao động một cách bền vững, cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ: tăng cường thanh tra, giám sát và xử phạt nghiêm minh các cơ sở có nguy cơ cao; lồng ghép an toàn lao động vào quy trình sản xuất và đánh giá hiệu quả công việc; đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, giảm thiểu yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc; huấn luyện thường xuyên cho cả người lao động và cán bộ quản lý về kiến thức, kỹ năng phòng ngừa rủi ro.

 

Một môi trường làm việc an toàn không chỉ bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, mà còn là điều kiện để doanh nghiệp phát triển bền vững, có năng suất và năng lực cạnh tranh cao.

 

Với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và toàn xã hội, Việt Nam hoàn toàn có thể hướng tới mục tiêu giảm thiểu tai nạn lao động, phát triển kinh tế trên nền tảng an toàn, hiện đại và nhân văn.

BBT

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập