Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

 

Sự phát triển của công nghệ cảm biến, tự động hóa, Internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI) đã mở ra một kỷ nguyên mới cho việc quản lý an toàn lao động. Hàng loạt phát kiến mới ra đời, cho phép phát hiện, giám sát và cảnh báo các mối nguy hiểm tại nơi làm việc một cách tức thời, giúp phát hiện sớm rủi ro và bảo vệ người lao động hiệu quả hơn. Theo xu thế chung của thế giới, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã và đang ứng dụng những giải pháp công nghệ tiên tiến này, trọng tâm là các ngành xây dựng và khai khoáng.

 

Xu hướng nghiên cứu công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm qua dữ liệu sáng chế

Theo Báo cáo toàn cảnh công nghệ về Sức khỏe và an toàn nghề nghiệp (Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety), có 157.183 họ sáng chế đề cập đến công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc (chiếm tỷ lệ 35% trên tổng số sáng chế về công nghệ hỗ trợ an toàn lao động (OHS) trên toàn thế giới), nhưng chỉ có khoảng 11,4% trong số đó (tương ứng 17.919 họ sáng chế) được phân loại là Họ sáng chế quốc tế (International Patent Families - IPFs).

 

Xu hướng đăng ký sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm giai đoạn 2014-2023

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

Trong giai đoạn 2014-2023, số lượng họ sáng chế liên quan đến công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm có xu hướng tăng trưởng liên tục, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) đạt 10,8%. Trong đó, năm 2021 ghi nhận số lượng nghiên cứu được công bố đạt mức cao nhất với 17.825 họ sáng chế. Theo Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), động lực chính cho sự tăng trưởng này đến từ quá trình số hóa đang diễn ra tại các môi trường làm việc và những tiến bộ trong các công nghệ cảm biến, tự động hóa, IoT và AI.

Mặc dù tổng số sáng chế đã tăng đáng kể trong giai đoạn 2004-2023, nhưng tốc độ tăng trưởng của IPFs - đại diện cho các họ sáng chế được đăng ký bảo hộ tại nhiều quốc gia/ khu vực trên thế giới – lại khá khiêm tốn. Tỷ lệ IPFs trên tổng số sáng chế đã giảm mạnh từ mức 38% trong những năm đầu (2005, 2006) xuống chỉ còn 6% vào năm 2023. Điều này cho thấy việc mở rộng phạm vi bảo hộ quốc tế cho các sáng chế trong lĩnh vực này còn hạn chế và chưa được chú trọng. Theo WIPO, tốc độ tăng trưởng chậm của IPFs có thể do chi phí liên quan đến việc nộp đơn quốc tế quá cao đối với các công ty nhỏ và nhà phát minh cá nhân, hoặc do các sáng chế chỉ phù hợp với nhu cầu và môi trường pháp lý của từng khu vực, làm giảm nhu cầu bảo hộ trên phạm vi toàn cầu.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm ở quy mô quốc tế giai đoạn 2004-2023

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

 

Các lĩnh vực nghiên cứu chính trong công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm

Trong Báo cáo toàn cảnh công nghệ về Sức khỏe và an toàn nghề nghiệp, WIPO chia công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc thành 7 lĩnh vực công nghệ chính:

- Hệ thống an toàn dựa trên vị trí (Location-based security systems): có số lượng nhiều nhất, với 61.872 sáng chế (trong đó có 11.480 IPFs), sử dụng GPS và các phương pháp theo dõi vị trí khác để cung cấp dữ liệu theo thời gian thực, giúp nâng cao nhận thức tình huống và hỗ trợ ứng phó khẩn cấp một cách hiệu quả.

- Giải pháp phần mềm an toàn (Safety software solutions): với 54.239 sáng chế (trong đó có 4.174 IPFs), là các nền tảng giúp quản lý các quy trình an toàn, theo dõi sự cố và đảm bảo tuân thủ quy định, cung cấp khả năng giám sát theo thời gian thực và lập báo cáo chi tiết.

- Hệ thống giám sát nhiệt độ (Temperature monitoring systems): với 34.693 sáng chế (trong đó có 2.157 IPFs), giải pháp giám sát nhiệt độ liên tục nhằm ngăn ngừa quá nhiệt và giảm thiểu rủi ro liên quan đến nhiệt độ khắc nghiệt.

- Thiết bị phát hiện bức xạ (Radiation detection equipment): với 16.533 sáng chế (trong đó có 2.854 IPFs), là các công cụ chuyên dụng để phát hiện và giám sát bức xạ trong các ngành công nghiệp có nguy cơ phơi nhiễm.

- Thiết bị phát hiện khí độc (Gas detection equipment): với 14.116 sáng chế (trong đó có 1.151 IPFs), là các thiết bị chuyên dụng giám sát chất lượng không khí để phát hiện khí độc hại, đảm bảo an toàn cho người lao động, đặc biệt ở những khu vực có rủi ro cao.

- Hệ thống phát hiện và phòng cháy (Fire detection and prevention systems): với 10.140 sáng chế (trong đó có 603 IPFs), sử dụng công nghệ cảm biến và báo động tiên tiến để nhanh chóng nhận diện nguy cơ hỏa hoạn.

- Hệ thống giám sát mức độ tiếng ồn (Noise-level monitoring): với 5.935 sáng chế (trong đó có 842 IPFs), giúp đo lường và kiểm soát tiếng ồn trong môi trường làm việc, nhằm bảo vệ người lao động khỏi các rủi ro sức khỏe về thính lực.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm theo các lĩnh vực nghiên cứu chính

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

Hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm đều tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2014-2023 và đạt đỉnh vào năm 2021. Trong đó, Hệ thống an toàn dựa trên vị tríGiải pháp phần mềm an toàn là hai lĩnh vực nghiên cứu dẫn đầu, cho thấy sự phụ thuộc ngày càng tăng vào các giải pháp kỹ thuật số và công nghệ theo dõi thời gian thực để nâng cao an toàn lao động tại nơi làm việc.

 

Các khu vực bảo hộ và tổ chức dẫn đầu nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm

IPFs được ưu tiên đăng ký bảo hộ ở những thị trường lớn, với hệ sinh thái công nghệ và tiềm năng kinh doanh mạnh mẽ. Trong đó, Mỹ là quốc gia được các tổ chức nộp đơn chú trọng về bảo hộ sở hữu trí tuệ nhất với 8.374 họ sáng chế. Văn phòng Sáng chế Châu Âu (EPO), với phạm vi bảo hộ rộng khắp nhiều quốc gia Châu Âu, đứng thứ hai với 6.084 họ sáng chế. Trung Quốc đứng thứ ba với 5.951 họ sáng chế được đăng ký bảo hộ, cho thấy đây cũng là thị trường hấp dẫn cho các công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc.

 

Top 10 khu vực và top 10 tổ chức nộp đơn về công nghệ phát hiện và cảnh báo, theo số lượng IPFs được công bố

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

Vai trò chủ chốt của các tập đoàn công nghệ lớn được phản ánh rõ qua phân tích của WIPO: 79% các tổ chức nộp đơn đến từ các ngành công nghiệp nắm giữ đến 84% tổng số IPFs. Các doanh nghiệp dẫn đầu trong việc đăng ký IPFs bao gồm: Huawei (Trung Quốc), Samsung Electronics (Hàn Quốc), ZTE (Trung Quốc), Microsoft (Mỹ) và Bosch (Đức). Trong số 10 tổ chức dẫn đầu nộp đơn đăng ký sáng chế, Mỹ chiếm đa số với 5 đơn vị, tiếp theo là Châu Á với 4 đơn vị từ Trung Quốc và Hàn Quốc, và Châu Âu có 1 công ty từ Đức. Điều này cho thấy các tập đoàn công nghệ lớn, với nguồn lực dồi dào và chiến lược tập trung, đang là động lực chính thúc đẩy sự đổi mới và nắm giữ phần lớn bằng sáng chế trong công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm theo ngành công nghiệp

Trong giai đoạn 2014-2023, ngành Xây dựng và Sản xuất đã thu hút sự quan tâm lớn về đầu tư và nghiên cứu công nghệ an toàn. Đặc biệt, ngành Xây dựng nổi bật là lĩnh vực dẫn đầu, với sự gia tăng liên tục về số lượng đăng ký sáng chế. Theo WIPO, xu hướng này có thể là kết quả của những tiến bộ không ngừng trong công nghệ an toàn xây dựng, được thúc đẩy bởi nhu cầu mạnh mẽ và các quy định an toàn lao động ngày càng nghiêm ngặt. Ngược lại, các ngành Chăm sóc sức khỏe, Nông nghiệpHậu cần cho thấy mức tăng trưởng vừa phải, cùng với sự sụt giảm đáng kể về số lượng sáng chế kể từ năm 2021.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm theo ngành công nghiệp

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

 

Một số nghiên cứu về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại Việt Nam

Theo ghi nhận từ các cơ sở dữ liệu sáng chế, đề tài khoa học và bài nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học trong nước, nhiều kết quả nghiên cứu đã được công bố về công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và khai khoáng.

 

Nghiên cứu hệ thống giám sát và phát hiện khí độc trong khai thác hầm lò

Các đơn vị khai thác than hầm lò trong Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc (TCT) đã được trang bị hệ thống giám sát khí mỏ tập trung tự động (còn gọi là hệ thống quan trắc khí mỏ) được nhập khẩu từ nhiều nước như: Ba Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh Quốc, Đức. Trong đó, phần lớn (đến 90%) là hệ thống KSP-2C do Ba Lan sản xuất. Do đó, với mục tiêu làm chủ công nghệ và giảm chi phí nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài, từ năm 2007, Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hoá (VIELINA - trực thuộc Bộ Công thương) đã tiến hành nhiều nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm các thiết bị, hệ thống giám sát khí mỏ. Từ đề tài khoa học cấp quốc gia, như “Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ chế tạo hệ thống SCADA phục vụ an toàn lao động trong khai thác hầm lò” nghiệm thu năm 2010, cho đến các sáng chế/giải pháp hữu ích liên quan đến các thiết bị giám sát, đo lường nồng độ khí trong hầm lò đã được đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, ví dụ như giải pháp hữu ích “Thiết bị tự động đo và cảnh báo khí mêtan” (số bằng 2-0001159-000, cấp ngày 24/3/2014), sáng chế “Thiết bị tự động giám sát khí CO” (số đơn 1-2017-04953, công bố ngày 25/6/2019), sáng chế “Thiết bị tự động giám sát khí H2 (số đơn 1-2017-04956, công bố ngày 25/6/2019), sáng chế “Thiết bị tự động giám sát khí CH4 (số đơn 1-2017-04955, công bố ngày 25/6/2019), sáng chế “Thiết bị tự động giám sát khí O2 (số đơn 1-2017-04962, công bố ngày 25/6/2019) và sáng chế “Thiết bị tự động giám sát khí CO2 (số đơn 1-2017-04961, công bố ngày 25/6/2019).

Tới nay, hệ thống giám sát các thông số môi trường hầm lò của VIELINA đã được cải tiến và thương mại hóa với tên gọi VIELINA-WS.40. Hệ thống này tích hợp nhiều cảm biến để đo lường các thông số như CH4, CO, CO2, O2, H2, tốc độ gió, nhiệt độ, hạ áp,... VIELINA-WS.40 hiện đang được sử dụng tại Công ty Than Uông Bí, Công ty Than Khe Chàm và Công ty 91,... với khả năng tự động kiểm soát khí mỏ và hoạt động liên tục 24/24 giờ, hệ thống đảm bảo duy trì hoạt động ngay cả khi mất điện lưới nhờ nguồn điện dự phòng.

 

Mô hình hệ thống giám sát các thông số môi trường trong hầm lò VIELINA-WS.40

(Nguồn: https://www.vielina.com/)

Để khắc phục một số hạn chế của hệ thống giám sát sử dụng mạng có dây truyền thống, các nhà khoa học tại Trường Đại học Mỏ - Địa chất đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ IoT trong việc giám sát các loại khí, bụi nổ trong khai thác than hầm lò. Đây là kết quả từ đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu đề xuất giải pháp IoT cảnh báo sớm rủi ro, sự cố trong mỏ hầm lò trên bể than Quảng Ninh”, được Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiệm thu năm 2024.

Nhóm nghiên cứu đề xuất giải pháp thiết kế mạng cảm biến không dây với sự điều khiển của vi điều khiển ESP32 có khả năng giám sát và kiểm soát điều kiện môi trường mỏ than hầm lò trong lòng đất. Công nghệ này bao gồm các cảm biến đo các dữ liệu khí, bụi, nhiệt độ, độ ẩm mỏ,… và truyền tải dữ liệu về khối trung tâm (Gateway) bằng sóng LoRa, sau đó truyền dữ liệu về máy chủ (server) bằng sóng Wifi. Kết quả dữ liệu truyền về máy chủ là dữ liệu số và có thể được biểu diễn bằng các hình ảnh cảnh báo, có thể xem được toàn cảnh các điểm đo trong cùng một thời gian, từ đó có thể đưa ra quyết định cảnh báo sớm rủi ro, sự cố khi các giá trị đo vượt ngưỡng giá trị an toàn theo tiêu chuẩn cho phép.

 

Mô hình (a) và giao diện cảnh báo (b) của hệ thống giám sát an toàn hầm lò sử dụng công nghệ IoT

(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

 

Kiểm soát người vào/ra hầm lò tự động kết hợp công nghệ UHF RFID và nhận diện khuôn mặt bằng trí tuệ nhân tạo

Việc kiểm soát lao động trong hầm lò là một yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo an toàn tại các đơn vị khai thác khoáng sản. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp thủ công, một số mỏ đã áp dụng công nghệ RFID không tiếp xúc. Tuy nhiên, giải pháp này vẫn còn một số trở ngại, bao gồm việc hệ thống không thể xác thực người mang thẻ, dẫn đến tình trạng mượn thẻ. Bên cạnh đó, người lao động phải áp thẻ vào đầu đọc để tránh hệ thống nhận nhiều thẻ cùng lúc, làm giảm tốc độ di chuyển và gây ùn tắc tại cổng ra vào.

Nhằm khắc phục những hạn chế của các phương pháp kiểm soát thủ công và công nghệ RFID, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Công nghệ Vi điện tử và Tin học (trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) đã phát triển hệ thống “Cổng thông minh” mới. Đây là sản phẩm của đề tài khoa học cấp bộ: “Xây dựng hệ thống ‘Cổng thông minh’ kiểm soát người vào/ra hầm lò tự động bằng tích hợp công nghệ UHF RFID và Nhận dạng khuôn mặt bằng trí tuệ nhân tạo”. Đề tài đã được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu năm 2021, cho phép nhận diện khuôn mặt và xác thực người mang thẻ từ xa mà không cần thao tác dừng lại hay quét thẻ.

 

Cấu trúc và thành phần trong hệ thống “Cổng thông minh” (Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

Hệ thống “Cổng thông minh” bao gồm một bộ khung cổng với các thiết bị phần cứng như: đầu đọc UHF RFID, IP Camera, bộ điều khiển (controller), đèn hiệu, còi báo, thanh chắn (barier). Hệ thống được vận hành bởi phần mềm điều khiển và giám sát SmartGateClient, đồng thời người quản lý có thể giám sát toàn hệ thống và các phần mềm cung cấp dịch vụ bằng phần mềm SmartGateAdmin.

Sản phẩm của đề tài đã được thử nghiệm thành công trong các tình huống giả lập, chứng minh khả năng kiểm soát người ra/vào hầm lò một cách nhanh chóng và chính xác. Qua đó, giải pháp này cùng với công nghệ định danh gián tiếp và xác thực bằng sinh trắc học còn có thể ứng dụng rộng rãi trong nhiều hệ thống kiểm soát khác, như kiểm soát ra/vào khu vực an ninh cao hay chống gian lận trong thi cử và bảo hiểm y tế.

 

Nghiên cứu ứng dụng công nghệ định vị GPS và IoT trong quản lý xây dựng

Tại Việt Nam, công tác quản lý an toàn lao động trên các công trường xây dựng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu, bởi đây là môi trường làm việc tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nhằm giải quyết thách thức này, các nghiên cứu đã tập trung vào việc ứng dụng công nghệ để giảm thiểu tai nạn. Một số giải pháp hữu ích và nghiên cứu đã được công bố:

- Sáng chế “Thiết bị giám sát an toàn người lao động và hệ thống giám sát an toàn người lao động” (số bằng 2-0003838-000, cấp ngày 14/11/2024) do Công ty TNHH Giải pháp kỹ thuật Lê Dương đăng ký bảo hộ. Sáng chế đề cập đến một thiết bị giám sát an toàn lao động gắn trên mũ bảo hộ của người lao động. Thiết bị này có một mã định danh riêng và bao gồm 3 bộ phận chính: (1) Cảm biến (thu thập dữ liệu sinh trắc học, gia tốc và góc nghiêng để xác định mức độ vận động, tư thế làm việc, và liệu mũ có đang được đội hay không); (2) Bộ xử lý (xử lý các dữ liệu thu thập được) và (3) Khối truyền thông (gửi dữ liệu đã được xử lý về máy chủ). Sáng chế cũng đề cập đến một hệ thống tổng thể sử dụng nhiều thiết bị như vậy để giám sát an toàn lao động trên diện rộng

 

Bản thiết kế thiết bị giám sát an toàn lao động gắn trên mũ bảo hộ lao động (Nguồn: Cục SHTT)

- Nghiên cứu “Ứng dụng công nghệ định vị GPS trên smartphone để quản lý an toàn lao động trong quản lý xây dựng” (được công bố trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, Tập 15, số 2V, năm 2021) do nhóm nghiên cứu từ Khoa Kỹ thuật Xây dựng (trực thuộc Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TP.HCM) thực hiện. Nghiên cứu này phát triển hệ thống quản lý an toàn lao động Mana Worker trên nền tảng Android Studio, để giám sát tự động vị trí và hành vi của công nhân trên công trường. Hệ thống này sử dụng các thiết bị như chip cảm biến và GPS để thu thập dữ liệu thời gian thực từ trang thiết bị bảo hộ của công nhân. Với nền tảng phần mềm trên ứng dụng di động, hệ thống có khả năng đưa ra cảnh báo nguy hiểm, cung cấp số liệu thống kê hữu ích cho người quản lý và theo dõi việc tuân thủ quy định an toàn. Nhờ đó, Mana Worker không chỉ giúp giảm thiểu tai nạn và các tranh chấp về chấm công, mà còn cải thiện ý thức an toàn cho người lao động.

 

Hình ảnh thi công công trình tại Thủ Thiêm và bảng dữ liệu chấm công, thống kê lỗi vi phạm của công nhân trên App Mana Worker (Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

- Nghiên cứu “Ứng dụng công nghệ IoT tích hợp vào nón bảo hộ phục vụ công tác quản lý an toàn lao động tại công trường” (được công bố trên Tạp chí Vật liệu và Xây dựng, Tập 13, số 01, năm 2023) bởi các nhà khoa học tại Bộ môn Thi công và Quản lý Xây dựng (Khoa Kỹ thuật Xây dựng – Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TP.HCM) thực hiện. Nghiên cứu này đề xuất giải pháp nón bảo hộ thông minh, tích hợp nhiều cảm biến và công nghệ IoT để phát hiện, cảnh báo sớm các sự cố tại công trường. Nón bảo hộ thông minh gồm 5 module: (1) Cảm biến nhiệt độ, độ ẩm DHT11; (2) Cảm biến chất lượng không khí MQ-135; (3) Mạch GPS BDS ATGM336H; (4) LoRa module E32 và (5) Buzzer (thiết bị cảnh báo bằng âm thanh). Mặc dù còn hạn chế về kích thước pin và dễ bị nhiễu tín hiệu, đây vẫn là một sản phẩm tiềm năng giúp cảnh báo môi trường và hỗ trợ người lao động tránh những tai nạn nguy hiểm trong quá trình làm việc.

 

Sơ đồ khối của nón bảo hộ thông minh, bản mạch Transmitter đặt ở mũ bảo hộ (a) và bản mạch Receiver đặt ở ban quản lý công trường xây dựng (Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

***

Nhìn chung, xu hướng nghiên cứu công nghệ phát hiện và cảnh báo nguy hiểm tại nơi làm việc đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian qua. Cùng với sự hỗ trợ của công nghệ cảm biến, GPS, IoT, AI,…, các kết quả nghiên cứu ngày càng mang tính ứng dụng cao và khả năng áp dụng trong thực tế. Sự phát triển này đã góp phần tạo ra những giải pháp hiệu quả như Hệ thống IoT giám sát khí trong hầm lò, “Cổng thông minh” tích hợp nhận dạng khuôn mặt để kiểm soát lao động, hay Nón bảo hộ thông minh tích hợp IoT. Những sáng kiến này không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho người lao động mà còn hỗ trợ công tác quản lý một cách hiệu quả và chính xác hơn, từ đó tạo ra môi trường làm việc an toàn, đặc biệt trong các ngành nghề có nhiều rủi ro.

Duy Sang

----------------------------------------

Mời các bạn đón đọc tiếp Phần 4: Công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc trong ấn phẩm Thông tin chuyên đề KHCN&ĐMST số 10/2025.

----------------------------------------

Tài liệu tham khảo chính

[1] CSDL WIPO Publish. https://wipopublish.ipvietnam.gov.vn/
[2] WIPO. Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety (OHS).
[3] Đ.T.V (NASATI). Nghiên cứu, xây dựng hệ thống “Cổng thông minh” kiểm soát người vào/ra hầm lò tự động bằng tích hợp công nghệ UHF RFID và Nhận dạng khuôn mặt bằng trí tuệ nhân tạo. https://www.vista.gov.vn/vi/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-xay-dung-he-thong-cong-thong-minh-kiem-soat-nguoi-vao-ra-ham-lo-tu-dong-bang-tich-hop-cong-nghe-uhf-rfid-va-nhan-dang-khuon-mat-bang-tri-tue-nhan-tao-9795.html
[4] Đỗ Tiến Sỹ và các cộng sự. Ứng dụng công nghệ IoT tích hợp vào nón bảo hộ phục vụ công tác quản lý an toàn lao động tại công trường. Tạp chí Vật liệu và Xây dựng, 112-117.
[5] Nguyễn Duyên Phong và các cộng sự. Nghiên cứu đề xuất giải pháp cảnh báo sớm rủi ro, sự cố bằng công nghệ ioT trong khai thác than hầm lò. Tạp chí Công nghiệp Mỏ, 10-16.
[6] Phạm Vũ Hồng Sơn và Nguyễn Văn Tiến Khởi. Ứng dụng công nghệ định vị GPS trên smartphone để quản lý an toàn lao động trong quản lý xây dựng. Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, 155-170.
[7] VINACOMIN. Giới thiệu các loại hệ thống quan trắc khí mỏ tập trung tự động ở các mỏ than hầm lò tại Việt Nam. https://trungtamantoanmo.com/gioi-thieu-cac-loai-he-thong-quan-trac-khi-mo-tap-trung-tu-dong-o-cac-mo-than-ham-lo-tai-viet-nam/
[8] VUSTA. Chế tạo thành công hệ thống giám sát khí metan tự động phục vụ an toàn khai thác hầm lò. https://vusta.vn/che-tao-thanh-cong-he-thong-giam-sat-khi-metan-tu-dong-phuc-vu-an-toan-khai-thac-ham-lo-p68043.html

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập