Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ được xác định là hướng đi bền vững, vừa đảm bảo an toàn thực phẩm, vừa góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sang mô hình này vẫn gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là vấn đề vốn. Chính vì vậy, triển khai cơ chế vay vốn lên tới 70% giá trị dự án mà không cần tài sản bảo đảm đang mở ra một cơ hội đột phá cho người sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam.
Nông nghiệp hữu cơ
Thông tin từ Hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn chăn nuôi (Rapid Alert System for Food and Feed - RASFF) của Liên minh châu Âu (European Union - EU) cho thấy, chỉ tính riêng trong năm 2024, có đến 5.268 cảnh báo liên quan đến mối nguy trong nông sản thực phẩm toàn cầu. Trong số này, Việt Nam ghi nhận 114 cảnh báo, chiếm 2,2% tổng số cảnh báo từ EU, tăng gần gấp đôi so với năm 2023 và tập trung đến từ dư lượng thuốc trừ sâu và thuốc thú y trong các sản phẩm xuất khẩu. Việc thực phẩm chứa dư lượng hóa chất độc hại như dư lượng thuốc trừ sâu, phụ gia thực phẩm (sulfite, nitrite,...), các loại mycotoxin khác ngoài aflatoxin, chất gây ô nhiễm trong quá trình (acrylamide, hydrocarbon thơm đa vòng,...), hay chất gây ô nhiễm tự nhiên (aminoglycoside, axit aristolochic,...) góp phần làm gia tăng các bệnh mãn tính như ung thư, tim mạch,… khiến nhu cầu về thực phẩm an toàn, không chứa dư lượng hóa chất độc hại trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trước thực trạng thực phẩm chứa dư lượng hóa chất độc hại ngày càng gia tăng, nông nghiệp hữu cơ nổi lên như một giải pháp bền vững, đáp ứng nhu cầu sản phẩm an toàn, thân thiện với môi trường, bằng cách loại bỏ hoàn toàn thuốc trừ sâu tổng hợp, chất kích thích tăng trưởng và các hóa chất độc hại khỏi chuỗi sản xuất thực phẩm.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations - FAO), "nông nghiệp hữu cơ" là một hệ thống quản lý sản xuất tích hợp, thúc đẩy và nâng cao sức khỏe hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm đa dạng sinh học, chu trình sinh học và hoạt động sinh học của đất. Nông nghiệp hữu cơ nhấn mạnh việc sử dụng các yếu tố đầu vào tự nhiên (khoáng chất và các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật) và loại bỏ phân bón và thuốc trừ sâu tổng hợp.
Ủy ban Codex Alimentarius (CAC), cơ quan liên chính phủ do FAO và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thành lập năm 1963, chịu trách nhiệm ban hành Bộ tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế Codex Alimentarius, nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và thúc đẩy thương mại thực phẩm công bằng, cũng xác định nông nghiệp hữu cơ là hệ thống sản xuất cho cả cây trồng và vật nuôi, ưu tiên các biện pháp quản lý sinh học và kỹ thuật canh tác tự nhiên thay vì sử dụng vật liệu tổng hợp.
Theo Liên đoàn Các phong trào canh tác nông nghiệp hữu cơ quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements - IFOAM), nông nghiệp hữu cơ hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, chất điều hòa sinh trưởng,… góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cung cấp thực phẩm an toàn, chất lượng cao.
Tại Việt Nam, ngay từ năm 2006, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành bộ tiêu chuẩn ngành 10TCN 602:2006 (“Hữu cơ - Tiêu chuẩn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và chế biến”), trong đó xác định: “Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống đồng bộ hướng tới việc thực hiện các quá trình sản xuất với kết quả là đảm bảo hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, chất lượng tốt, chăm sóc chu đáo động vật và công bằng xã hội: là hệ thống sản xuất không sử dụng hoặc loại trừ các chất hóa học tổng hợp trong các vật tư đầu vào, tạo điều kiện cho sự chuyển háo khép kín vật chất trong hệ canh tác, chỉ được sử dụng các vật tư được quy định”. Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ, được Chính phủ ban hành ngày 29/8/2018 sau đó đã làm rõ hơn, đó là hệ thống sản xuất bảo vệ tài nguyên đất, hệ sinh thái và sức khỏe con người, dựa vào các chu trình sinh thái, đa dạng sinh học thích ứng với điều kiện tự nhiên, không sử dụng các yếu tố gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái; là sự kết hợp kỹ thuật truyền thống và tiến bộ khoa học để làm lợi cho môi trường chung, tạo mối quan hệ công bằng và cuộc sống cân bằng cho mọi đối tượng trong hệ sinh thái; sản xuất nông nghiệp hữu cơ là hệ thống quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ; vật tư đầu vào được sử dụng trong sản xuất hữu cơ theo quy định tại tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ; không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, phân bón, chất bảo quản, chất phụ gia là hóa chất tổng hợp; thuốc kháng sinh, sinh vật biến đổi gen, hóc môn tăng trưởng.
Các hình thức canh tác hữu cơ chủ yếu gồm canh tác hữu cơ thuần túy và canh tác hữu cơ tổng hợp đã phát triển, trọng tâm là duy trì và cải thiện sức khỏe tổng thể của hệ thống đất, vi sinh vật, thực vật, động vật của từng trang trại. Trong đó, canh tác hữu cơ tổng hợp là một quy trình tuần hoàn - khép kín, mọi yếu tố trong trang trại (cây trồng, vật nuôi, đất, nước, vi sinh vật) được kết nối với nhau thành một chu trình sinh thái. Nhiều phương pháp canh tác được áp dụng như: ủ phân, luân canh, tỉa cành, phủ rơm rạ, đa canh, quản lý đất và cỏ dại,... Các kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi cho các loại cây trồng như rau xà lách, rau xanh, cây ăn củ, khoai tây và nhiều loại cây trồng khác. Đối với vật nuôi hữu cơ, ngoài việc sử dụng thức ăn có nguồn gốc hữu cơ (bao gồm thức ăn và phụ gia từ tự nhiên, thực vật hoặc sinh học), điều kiện chăn nuôi cũng phải đảm bảo không gian rộng rãi, không khí trong lành, ánh sáng tự nhiên, bóng râm, nơi trú ẩn khi thời tiết khắc nghiệt, tất cả phải phù hợp với từng loài vật nuôi và đặc thù khí hậu.
Không dừng lại ở việc tạo ra sản phẩm sạch, nông nghiệp hữu cơ còn tiếp cận toàn diện từ quản lý đất đai, nguồn nước, sinh vật có ích cho đến cân bằng hệ sinh thái trang trại. Nhờ đó, phương thức này không chỉ giúp phục hồi độ màu mỡ của đất, duy trì đa dạng sinh học, kiểm soát sâu bệnh tự nhiên mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo nền tảng thiết yếu cho sự phát triển nông nghiệp bền vững. Thêm vào đó, nông nghiệp hữu cơ còn mang lại lợi ích kinh tế dài hạn thông qua việc cắt giảm chi phí đầu vào hóa học, tận dụng nguồn lực tại chỗ và gia tăng giá trị sản phẩm trên thị trường.

Canh tác nông nghiệp hữu cơ. (Nguồn: ippsn.org)
Thách thức và giải pháp trong phát triển nông nghiệp hữu cơ
Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ trở thành lĩnh vực thực phẩm tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, với doanh số tăng đều đặn từ 20-25% mỗi năm. Nhiều khu vực như châu Âu, Mỹ và Mỹ Latinh ghi nhận sự gia tăng mạnh về diện tích canh tác hữu cơ, dù tổng diện tích vẫn chiếm chưa tới 1% đất nông nghiệp toàn cầu. Nhiều quốc gia đã ban hành chính sách hỗ trợ, như trợ cấp cho nông dân chuyển đổi sản xuất, trong khi các doanh nghiệp lớn sử dụng thực phẩm hữu cơ để xây dựng thương hiệu. Ở các nước đang phát triển, sản xuất hữu cơ không chỉ giúp tăng thu nhập nhờ giá bán cao hơn, mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực tại những khu vực thiếu thốn tài nguyên.
Tại Việt Nam, nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm hữu cơ, an toàn, tốt cho sức khỏe đang ngày càng được quan tâm, khi khảo sát của Vietnam Report Group tại TP.HCM và Hà Nội năm 2019 cho thấy 51,5% người tiêu dùng có xu hướng chọn sản phẩm nguồn gốc hữu cơ. Khảo sát khác của Nielsen về Niềm tin Người tiêu dùng Toàn cầu năm 2020 cũng cho thấy, sức khỏe là một trong những mối quan tâm hàng đầu của người Việt và nhiều người sẵn sàng chi thêm thu nhập để mua các sản phẩm có lợi cho sức khỏe. Báo cáo Vietnam Insight Ebook 2021 của Kantar Worldpanel cũng cho thấy 79% người tiêu dùng Việt Nam được khảo sát sẵn sàng trả giá cao hơn cho các loại thực phẩm lành mạnh hơn.
Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam còn khá non trẻ và đang dần khẳng định vị trí trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững. Tính đến cuối năm 2023, cả nước có khoảng 74.540 ha đất sản xuất hữu cơ, chiếm khoảng 0,5% tổng diện tích nông nghiệp (số liệu từ Hội thảo “Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam", tổ chức ngày 15/11/2024, tại Hà Nội). Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản như: chi phí cao, thiếu hạ tầng kỹ thuật, cùng với việc nhận thức của một bộ phận người tiêu dùng còn hạn chế. Ví dụ, quá trình chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang hữu cơ đòi hỏi thời gian dài (ít nhất 12 tháng đối với cây ngắn ngày và 18 tháng đối với cây dài ngày) để cải tạo đất, loại bỏ dư lượng hóa chất và xây dựng hệ sinh thái cân bằng. Trong thời gian này, sản lượng thường giảm nhưng chi phí đầu tư lại tăng cao, bao gồm cả chi phí cải tạo đất, mua vật tư đầu vào đạt chuẩn hữu cơ, thiết bị và đào tạo kỹ thuật. Đối với nhiều nông dân, đặc biệt là hộ nghèo, việc tiếp cận nguồn vốn là một thách thức lớn. Ngoài ra, canh tác hữu cơ còn đòi hỏi kiến thức chuyên sâu, quy trình nghiêm ngặt và tiêu tốn nhiều công lao động hơn so với nông nghiệp thông thường,..
|
Lợi ích của nông nghiệp hữu cơ - Cải thiện sức khỏe đất: canh tác hữu cơ tập trung xây dựng đất khỏe mạnh thông qua luân canh, trồng cây che phủ và sử dụng ủ phân, giúp hạn chế xói mòn và tăng độ phì nhiêu. - Giảm ô nhiễm: giảm tác động từ hóa chất nông nghiệp như thuốc trừ sâu, phân bón tổng hợp, hạn chế thấm vào nguồn nước và bảo vệ hệ sinh thái. - Tăng đa dạng sinh học: khuyến khích đa dạng sinh học nhờ hạn chế phân bón và thuốc trừ sâu tổng hợp, bảo vệ côn trùng có ích, chim và động vật hoang dã. - Giảm khí thải carbon: các phương pháp canh tác hưu cơ giúp giảm lượng khí thải nhờ hệ thống sản xuất tiết kiệm phân bón, thuốc trừ sâu, vốn và năng lượng. - Giảm thiểu rủi ro tiếp xúc với chất độc hại: bảo vệ con người, vật nuôi tiếp xúc với các vật liệu độc hại. Nguồn: ofrf.org |
Để thúc đẩy phát triển lĩnh vực này, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ tạo khung pháp lý, từng bước tháo gỡ khó khăn cho người sản xuất. Ví dụ, ngoài bộ tiêu chuẩn ngành 10TCN 602:2006 “Hữu cơ - Tiêu chuẩn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và chế biến” được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành năm 2006, Chính phủ đã cho phép thành lập Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (2011); ban hành Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg về hỗ trợ áp dụng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Bộ tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ TCVN 11041-2:2017 (Trồng trọt hữu cơ), TCVN 11041-3:2017 (Chăn nuôi hữu cơ),...
Để giải quyết bài toán thiếu vốn đầu tư cho quá trình chuyển đổi từ canh tác thông thường sang canh tác hữu cơ, ngày 9/6/2015, Chính phủ đã có Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tiếp đó, khung pháp lý cho lĩnh vực hữu cơ được tiếp tục củng cố, như Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Năm 2020, Thủ tướng có Quyết định số 885/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Ban chấp hành Trung ương Đảng cũng ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định "khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn",…
Mới đây, xuất phát từ nhu cầu hỗ trợ vốn cho nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất hữu cơ, đồng thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế, sản xuất hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2025/NĐ-CP ngày 16/6/2025, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này bổ sung Điều 15a vào Nghị định 55, quy định về chính sách tín dụng khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ. Theo đó, khách hàng có dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh nông nghiệp hữu cơ theo quy định của pháp luật sẽ được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không cần tài sản bảo đảm, với mức vay tối đa bằng 70% giá trị dự án hoặc phương án. Ngoài ra, Nghị định 156 cũng sửa đổi cơ chế bảo đảm tiền vay tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 55 (sửa đổi tại khoản 3 Điều 1 Nghị định 116/2018/NĐ-CP), theo đó, các tổ chức tín dụng có thể xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm theo từng nhóm đối tượng cụ thể: cá nhân, hộ gia đình (tối đa 300 triệu đồng), tổ hợp tác, hộ kinh doanh (tối đa 500 triệu đồng), chủ trang trại (tối đa 3 tỷ đồng), hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (tối đa 5 tỷ đồng). Nghị định này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2025.
Có thể thấy, việc ban hành chính sách không chỉ đơn thuần là xây dựng một khung pháp lý cho nông nghiệp hữu cơ mà còn là bước tiến quan trọng trong tư duy phát triển nông nghiệp, quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, tin tưởng vào năng lực của người sản xuất, khuyến khích mô hình hữu cơ và đồng hành cùng nông dân trong hành trình chuyển đổi xanh.
Tại TP.HCM, với lợi thế về tài nguyên đất đai màu mỡ và hệ thống kênh rạch, sông ngòi dày đặc, đặc biệt là các dòng sông lớn như Đồng Nai, sông Bé và sông Sài Gòn, nông nghiệp hữu cơ có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng. Cùng với việc sát nhập Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, sự hợp lực về quỹ đất, hạ tầng logistics và thị trường tiêu thụ sẽ giúp TP.HCM hình thành vùng sản xuất hữu cơ quy mô lớn hơn. Đáng chú ý, TP.HCM có nền tảng khoa học, kỹ thuật vững mạnh, với mạng lưới viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp công nghệ nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các quy trình canh tác hiện đại, triển khai truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu nông sản hữu cơ đạt chuẩn quốc tế. Tất cả những yếu tố này hứa hẹn sẽ đưa nông nghiệp của siêu đô thị mới bứt phá, từng bước hình thành mũi nhọn sản xuất chất lượng cao phục vụ người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
***
Phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là lựa chọn chiến lược để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và hệ sinh thái. Tuy nhiên, hiện thực hóa mục tiêu này đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ về định hướng quản lý, nguồn lực đầu tư cũng như ý thức của toàn xã hội. Việc ban hành cơ chế tín dụng mới cho phép vay vốn không cần tài sản bảo đảm đã tháo gỡ phần nào khó khăn trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, tạo nền tảng tài chính cho quá trình chuyển đổi nông nghiệp hữu cơ. Đây là hỗ trợ thiết thực cho nông dân, đồng thời khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc kiến tạo nền nông nghiệp bền vững, giá trị gia tăng cao và thân thiện môi trường. Nông nghiệp hữu cơ cũng phù hợp với chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, phát triển bền vững và hướng tới xuất khẩu, góp phần định vị thương hiệu nông sản Việt Nam.
Vân Anh
----------------------------------------
Tài liệu tham khảo chính
[1] Nguyễn Hạnh. EU cảnh báo thực phẩm mới: Doanh nghiệp cần làm gì? https://congthuong.vn/eu-canh-bao-thuc-pham-moi-doanh-nghiep-can-lam-gi-375324.html
[2] TS Phùng Thị Anh Minh. Nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong phát triển bền vững. https://sinhthainongnghiep.net.vn/nong-nghiep-huu-co-tai-viet-nam-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-trong-phat-trien-ben-vung-a32717.html
[3]MinhNguyen.VietnamOrganicMarket.https://apps.fas.usda.gov/newgainapi/api/Report/DownloadReportByFileName?fileName=Vietnam%20Organic%20Market_Ho%20Chi%20Minh%20City_Vietnam_08-03-2021.pdf
[4]ThànhĐạt.ViệtNamđẩymạnhpháttriểnnôngnghiệphữucơ.https://nongnghiephuuco.vn/viet-nam-day-manh-phat-trien-nong-nghiep-huu-co-3042.html gidzl=BDEiHS0eYX4jogb7mpEC7op7ha_VFOyUDi6k7jq-
[5] Việt Anh. Chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ. https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/chinh-sach-phat-trien-nong-nghiep-huu-co-51111.vov2
[6] Agricultural Programme. https://www.ippsn.org/profile/agricultural-programme/
[7] Vietnam Consumer Insights 2021: Kantar E-book. https://studylib.net/doc/25591148/kantar-worldpanel-vietnaminsightebook2021-final
[8] Nguyễn Châu. Đến năm 2030, đất nông nghiệp sẽ chiếm gần 40% tổng diện tích tự nhiên TP.HCM. https://plo.vn/den-nam-2030-dat-nong-nghiep-se-chiem-gan-40-tong-dien-tich-tu-nhien-tphcm-post834383.html