Trong bối cảnh toàn cầu ngày càng quan tâm đến sức khỏe, môi trường và phát triển bền vững, nông nghiệp hữu cơ nổi lên như một giải pháp then chốt. Thống kê của FIBL (Viện nghiên cứu Nông nghiệp hữu cơ) và Tổ chức Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) cho thấy, năm 2021 thế giới có hơn 71 triệu ha canh tác hữu cơ, tương đương khoảng 1,5% tổng diện tích canh tác. Một số quốc gia như Hoa Kỳ, Úc và Liên minh châu Âu (EU) có tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ rất nhanh. Đến nay, trên thế giới có 186 quốc gia phát triển sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Việt Nam, với truyền thống nông nghiệp lâu đời và điều kiện tự nhiên đa dạng, có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp hữu cơ theo hướng công nghệ cao, bền vững và hội nhập quốc tế. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ được Nhà nước quan tâm từ lâu và hướng đến chuẩn hóa qua việc ban hành bộ Tiêu chuẩn ngành 10TCN 602 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (năm 2006), cũng như triển khai xây dựng bộ Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN 11041) về nông nghiệp hữu cơ (từ năm 2017). Tiêu chuẩn ngày càng cụ thể hóa các loại hình sản xuất hữu cơ, là cơ sở quan trọng để mở rộng quy mô và kiểm soát chất lượng. Chính phủ cũng đã ban hành riêng một Nghị định để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến sản xuất nông nghiệp hữu cơ (Nghị định số 109/2018/NĐ-CP, ban hành ngày 29/8/2018). Hơn nữa, để phát triển ngành nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, an toàn, thân thiện với môi trường, gắn với nền nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu thụ trong nước và quốc tế; sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được công nhận phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ của khu vực và thế giới, đưa Việt Nam trở thành nước có nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ tương đương các nước phát triển trên thế giới, ngày 23/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 (Quyết định số 885/QĐ-TTg).
Với những chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ của Nhà nước, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng, cả về diện tích và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2016, canh tác hữu cơ được triển khai tại 33 tỉnh, thành, với diện tích đạt 77.000 ha (gấp 3,6 lần so với 2010). Đến năm 2022, cả nước đã có khoảng 240.000 ha canh tác hữu cơ. Đặc biệt, có đến 59/63 tỉnh, thành trên cả nước triển khai nông nghiệp hữu cơ và xu hướng này ngày càng lan tỏa mạnh mẽ. Nhu cầu tiêu dùng trong nước và quốc tế về thực phẩm sạch, an toàn là động lực để nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh.
Điều tra công bố năm 2020 của Tổ chức Nông nghiệp Quốc tế cũng cho thấy, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu sang 180 nước trên thế giới, từ châu Á (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Singapore), châu Âu (Đức, Anh, Nga, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Ý,…) cho đến Mỹ.
Tuy đã đạt được nhiều thành quả quan trọng, theo các chuyên gia, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Ví dụ, chưa có quy hoạch về sản xuất hữu cơ, chưa có các cơ chế chính sách riêng hỗ trợ cho sản xuất hữu cơ, mà lồng ghép thực hiện trong các chương trình, dự án khác như chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hỗ trợ liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng…; chưa có nhiều tổ chức trong nước có thể kiểm tra chứng nhận sản xuất hữu cơ, mà phần lớn phải thuê các tổ chức nước ngoài nên chi phí cao, khó thực hiện, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ hoặc các hộ dân; các quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tài liệu tập huấn đào tạo về sản xuất hữu cơ còn hạn chế, chưa phổ biến; nguồn nhân lực tinh thông sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn quá ít so với nhu cầu; quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, nên khó khăn trong việc sản xuất quy mô lớn dẫn đến chi phí đầu tư cao,… Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng chưa thật sự tin tưởng và khó phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác,…
Do vậy, để nông nghiệp hữu cơ có thể phát triển một cách bền vững, theo các nhà khoa học, cần tăng cường đầu tư nghiên cứu công nghệ phù hợp vùng sinh thái – địa phương; phát triển chuỗi giá trị, hỗ trợ các hợp tác xã hữu cơ, kết nối doanh nghiệp – nông dân – thị trường; tăng cường truyền thông và đào tạo nâng cao nhận thức cộng đồng về sản phẩm hữu cơ; kiến tạo nhiều gói tín dụng ưu đãi, hỗ trợ khởi nghiệp hữu cơ, đặc biệt cho mô hình nhỏ – vừa. Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp có tính rủi ro cao do những tác động bên ngoài từ các yếu tố thời tiết, khí hậu. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, cũng rất cần các chính sách về bảo hiểm nông nghiệp. Đây là một lĩnh vực mới, nên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các tổ chức thực hiện bảo hiểm nông nghiệp.
BBT