Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

 

Trước khi các công nghệ dự báo, phát hiện và giám sát hiện đại ra đời, các thiết bị bảo vệ cá nhân chính là biện pháp chủ đạo và cơ bản nhất để bảo vệ người lao động trong các môi trường làm việc tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Đến nay, các công nghệ và thiết bị bảo hộ đã không ngừng được nghiên cứu và phát triển, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, so với sự bùng nổ của các sáng chế trên thế giới, nghiên cứu tại Việt Nam trong lĩnh vực này còn khá hạn chế và chủ yếu tập trung vào trang phục, thiết bị bảo hộ và các hệ thống thông gió.

 

Xu hướng nghiên cứu công nghệ bảo hộ lao động trên thế giới

Theo Báo cáo toàn cảnh công nghệ về Sức khỏe và an toàn nghề nghiệp (Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety), có tổng cộng 280.686 họ sáng chế đề cập đến công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc (chiếm tỷ lệ 62% trên tổng số sáng chế về công nghệ hỗ trợ an toàn lao động (OHS) trên toàn thế giới). Xu hướng công bố sáng chế công nghệ bảo vệ người lao động có sự tăng trưởng liên tục, với đỉnh điểm là năm 2021 với 29.846 họ sáng chế, tương ứng với năm diễn ra đại dịch COVID-19.

 

Số lượng họ sáng chế liên quan công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, giai đoạn 2014-2023

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) của các sáng chế trong giai đoạn 2014-2023 có sự sụt giảm nhẹ (-1,3%), nhưng lĩnh vực này vẫn thu hút nhiều nghiên cứu trên thế giới, cho thấy mức độ quan tâm đổi mới công nghệ an toàn lao động tại nơi làm việc.

Phân tích theo Họ sáng chế quốc tế (International Patent Families - IPFs) cho thấy, chỉ có 45.867 họ sáng chế (tương ứng với tỷ lệ 16,3% trên tổng số 280.686 họ sáng chế) về công nghệ bảo vệ người lao động được đăng ký bảo hộ ở nhiều quốc gia. Mặc dù số lượng sáng chế và IPF tăng trưởng ổn định, nhưng tỷ lệ IPF/Tổng số sáng chế đã giảm từ 29% năm 2004 xuống còn 11% năm 2023, cho thấy các sáng chế thời gian gần đây tập trung đăng ký bảo hộ và đáp ứng nhu cầu trong nước, hơn là thúc đẩy những tiến bộ công nghệ trên phạm vi quốc tế.

 

Tỷ lệ họ sáng chế quốc tế so với tổng số sáng chế công nghệ bảo vệ người lao động, giai đoạn 2004-2023

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

 

Các lĩnh vực nghiên cứu chính

WIPO đã phân loại các nghiên cứu công nghệ bảo vệ người lao động theo 9 lĩnh vực chính:

- Hệ thống thông gió và lọc khí (Ventilation and filtration systems): là lĩnh vực được đầu tư và đổi mới mạnh mẽ nhất, với số lượng sáng chế dẫn đầu trong nghiên cứu (87.042 họ sáng chế, trong đó có 6.611 IPFs). Các công nghệ này tập trung vào việc duy trì chất lượng không khí và giảm thiểu tiếp xúc với các chất độc hại trong không khí tại nơi làm việc.

- Không gian làm việc công thái học (Ergonomic workspaces): mặc dù có tổng số họ sáng chế ít hơn (62.618), nhưng lại dẫn đầu về số lượng sáng chế đăng ký quốc tế với 21.241 IPFs. Lĩnh vực công nghệ này tập trung vào việc thiết kế không gian làm việc giúp giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh về cơ xương khớp, nâng cao sự thoải mái và năng suất làm việc của người lao động.

- Thiết bị bảo hộ cá nhân (Personal protection equipment - PPE): với 55.517 họ sáng chế (trong đó có 7.422 IPFs), bao gồm các thiết bị bảo hộ như: mũ bảo hiểm, găng tay, kính bảo hộ, được thiết kế để bảo vệ người lao động khỏi các chấn thương nguy hiểm về thể chất.

- Công nghệ bảo vệ hô hấp (Respiratory protection technologies): với 35.586 họ sáng chế (trong đó có 5.334 IPFs), tập trung vào các thiết bị như khẩu trang và máy trợ thở, giúp bảo vệ sức khỏe hô hấp của người lao động trong môi trường có nhiều chất gây ô nhiễm.

- Bảo vệ chống rơi ngã (Fall protection): với 19.552 họ sáng chế (trong đó có 1.990 IPFs), bao gồm các hệ thống như dây an toàn và lan can, giúp ngăn ngừa chấn thương do ngã trong các môi trường có nguy cơ cao như xây dựng.

- Công nghệ bảo vệ thính giác (Hearing protection technologies): với 16.614 họ sáng chế (trong đó có 2.596 IPFs), cung cấp các giải pháp như nút tai và chụp tai để bảo vệ thính giác của người lao động và ngăn ngừa tổn thương trong môi trường làm việc nhiều tiếng ồn.

- Thiết bị đeo được (Wearable devices): với 9.855 họ sáng chế (trong đó có 1.639 IPFs), bao gồm các thiết bị an toàn đeo được, theo dõi sức khỏe và điều kiện môi trường của người lao động theo thời gian thực, giúp tăng cường các biện pháp an toàn tại nơi làm việc.

- Biện pháp bảo vệ cơ học (Mechanical safeguards): với 5.754 họ sáng chế (trong đó có 1.279 IPFs), bao gồm các tấm chắn và rào chắn, được thiết kế để ngăn ngừa tai nạn và thương tích liên quan đến máy móc.

- Thiết bị bảo vệ nhiệt (Thermal protection equipment): với 5.015 họ sáng chế (trong đó có 819 IPFs), tập trung vào thiết bị bảo vệ người lao động khỏi nhiệt độ khắc nghiệt, dù nóng hay lạnh.

Xu hướng chung cho thấy số lượng sáng chế tăng trưởng mạnh vào năm 2021 trên hầu hết các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là hệ thống thông gió và lọc khí, thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE) và công nghệ bảo vệ hô hấp. Điều này chủ yếu xuất phát từ sự quan tâm ngày càng lớn đến sức khỏe và an toàn trong bối cảnh đại dịch COVID-19.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc theo các lĩnh vực nghiên cứu chính

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

Tuy nhiên, từ năm 2022 trở đi, số lượng đăng ký sáng chế đã giảm đáng kể trên hầu hết các lĩnh vực, cho thấy sự thay đổi về thứ tự ưu tiên, tính cấp thiết giảm hoặc thị trường đã bão hòa. Một số lĩnh vực như các biện pháp bảo vệ cơ học và thiết bị đeo vẫn duy trì tỷ lệ nộp đơn ổn định, cho thấy sự quan tâm bền vững đối với những công nghệ này. Nhìn chung, phân tích theo lĩnh vực công nghệ cho thấy xu hướng đăng ký sáng chế chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài và nhu cầu xã hội theo từng giai đoạn.

 

Các khu vực bảo hộ và tổ chức dẫn đầu nộp đơn đăng ký bảo hộ

Theo khu vực đăng ký bảo hộ, Hoa Kỳ, Châu Âu, Trung Quốc, Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc là những khu vực được nhắm mục tiêu trong chiến lược đăng ký bảo hộ sáng chế quốc tế. Trong đó, Mỹ dẫn đầu với 20.954 IPFs, đứng thứ hai là Văn phòng Sáng chế Châu Âu với 15.776 IPFs, đứng thứ ba là Trung Quốc với 14.160 IPFs. Các khu vực và quốc gia này được ưu tiên đăng ký sở hữu trí tuệ vì có hệ sinh thái công nghệ và cơ hội thương mại hóa mạnh mẽ.

Theo thống kê của WIPO về các tổ chức nộp đơn, có tới 87,8% IPFs liên quan đến công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc được đăng ký bởi các doanh nghiệp, trong khi các tổ chức học thuật chỉ chiếm 3,9% và cá nhân chiếm 8,3%. Trong số này, Samsung Electronics (Hàn Quốc) dẫn đầu với 1.306 IPFs, tiếp theo là Sony (Nhật Bản) với 814 IPFs và 3M (Mỹ) với 760 IPFs. Đáng chú ý, top 10 tổ chức nộp đơn bảo hộ quốc tế đều là những tập đoàn lớn, trong đó có 6 đơn vị đến từ Mỹ, 2 từ Hàn Quốc và 2 từ Nhật Bản.

 

Top 10 khu vực và top 10 tổ chức nộp đơn về công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc, theo số lượng IPFs được công bố

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

 

Xu hướng công nghệ bảo vệ người lao động theo ngành công nghiệp

Theo ngành công nghiệp, xây dựng và sản xuất là hai lĩnh vực chiếm ưu thế về khối lượng sáng chế và đạt đỉnh vào năm 2021, nhưng sau đó là sự sụt giảm mạnh vào năm 2023. Ngược lại, các ngành nông nghiệp, hậu cần và dịch vụ có số lượng sáng chế khiêm tốn hơn nhưng lại cho thấy mức tăng trưởng ổn định trước năm 2021 và chỉ giảm nhẹ sau đó, phản ánh sự đổi mới bền vững nhưng chưa có sự đột phá. Đối với ngành chăm sóc sức khỏe, giai đoạn 2014-2019 ghi nhận mức tăng ổn định, nhưng từ năm 2020 số lượng sáng chế tăng vọt và đạt đỉnh năm 2021, rồi dần giảm trở lại. Còn ngành khai thác mỏ duy trì mức tăng trưởng tương đối ổn định trong suốt giai đoạn 2014-2023, cho thấy sự tập trung bền bỉ vào việc nâng cao an toàn lao động.

 

Bảo hộ sáng chế về công nghệ bảo vệ người lao động tại nơi làm việc theo ngành công nghiệp

(Nguồn: Biên dịch từ “Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety” (WIPO, 2025))

 

Một số nghiên cứu về công nghệ bảo hộ lao động tại Việt Nam

Thống kê các nghiên cứu liên quan đến công nghệ và thiết bị bảo vệ người lao động trên cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về KH&CN và CSDL WIPO Publish cho thấy, có 5 đề tài KH&CN được nghiệm thu (gồm 4 đề tài cấp Bộ và 1 đề tài cấp tỉnh/thành phố) và 3 giải pháp hữu ích đã công bố (trong đó 2 giải pháp hữu ích đã công bố bằng). Nghiên cứu sớm nhất liên quan đến công nghệ sản xuất trang phục bảo hộ lao động.

 

Nghiên cứu, thiết kế, sản xuất trang phục bảo hộ lao động

Ngành sản xuất luôn đối mặt với nhiều nguy hiểm tiềm ẩn tại nơi làm việc, do đó việc sử dụng trang phục bảo hộ là yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động. Tuy nhiên, thách thức đặt ra không chỉ nằm ở khả năng bảo vệ, mà còn ở việc thiết kế sao cho người lao động cảm thấy thoải mái trong quá trình làm việc. Đặc biệt, việc đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và nội địa hóa các sản phẩm bảo hộ không chỉ giúp nâng cao chất lượng, phù hợp hơn với điều kiện làm việc trong nước, mà còn góp phần giảm chi phí đáng kể cho doanh nghiệp.

Năm 2009, Viện Nghiên cứu Da - Giầy (Bộ Công Thương) đã thực hiện và nghiệm thu nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ: “Nghiên cứu thiết kế chế tạo pho mũi bằng thép cùng đế giày và phom giầy từ vật liệu khác thích hợp để sản xuất giầy bảo hộ lao động chống chấn thương cơ học”. Nhiệm vụ đặt mục tiêu thiết kế và chế tạo các khuôn mẫu, pho mũi bằng thép có khả năng chịu va đập, kết hợp với đế giày và phom giày từ vật liệu phù hợp nhằm tạo ra sản phẩm giày bảo hộ đáp ứng yêu cầu an toàn lao động. Kết quả nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện công nghệ sản xuất giày bảo hộ trong nước, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc bảo vệ công nhân trong các ngành công nghiệp.

Năm 2018, Công ty Cổ phần - Viện Nghiên cứu Dệt May (Bộ Công Thương) đã triển khai hai nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ và đều được nghiệm thu vào năm 2019. Đề tài thứ nhất: “Nghiên cứu và xây dựng quy trình công nghệ sản xuất vải từ sợi polyester chứa phụ gia kháng tia UV pha viscose để may quần áo bảo hộ lao động cho người làm việc ngoài trời” đã thành công trong việc xây dựng hai quy trình công nghệ dệt, nhuộm, xử lý hoàn tất vải dệt kim từ sợi polyester kháng tia UV pha viscose. Kết quả được ứng dụng sản xuất thử nghiệm tại Công ty TNHH Hưng Phát, cho ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu cơ lý hóa, đồng thời đảm bảo chất vải mềm, thoáng mát, bền màu, thấm hút mồ hôi và khô nhanh. Đề tài thứ hai: “Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất vải may quần áo bảo hộ cho người làm việc trong môi trường nhiệt độ thấp (50C)” đã lựa chọn được nguyên liệu dệt phù hợp với môi trường nhiệt độ thấp, hoàn tất quy trình sản xuất vải lớp ngoài và lớp trong. Nghiên cứu này cung cấp cơ sở công nghệ quan trọng để các doanh nghiệp dệt nhuộm trong nước có thể ứng dụng, cải tiến và triển khai sản xuất quần áo bảo hộ chuyên dụng cho môi trường nhiệt độ thấp, tạo ra sản phẩm chất lượng cao với giá thành hợp lý hơn so với hàng nhập khẩu.

 

Quần áo bảo hộ cho người lao động: (a) Làm việc ngoài trời; (b) Làm việc trong môi trường nhiệt độ thấp (Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

 

Chế tạo hệ thống thông gió cho hố ga, đường cống thoát nước

Theo CSDL WIPO Publish của Cục Sở hữu trí tuệ, Công ty TNHH MTV Thoát nước đô thị TP.HCM (UDC) đã thực hiện 2 giải pháp hữu ích liên quan đến thiết bị hỗ trợ an toàn cho người lao động: (1) “Quạt hút khí lòng cống” (Số bằng VN2-0001416-000, công bố ngày 01/08/2016), thiết kế nhằm hút các khí độc hại và bổ sung không khí tươi trong lòng cống thoát nước, góp phần tạo môi trường làm việc an toàn và thoải mái cho công nhân; (2) “Thiết bị thông gió đa năng” (Số đơn VN 2-2024-00387, công bố ngày 03/02/2025), có chức năng thổi gió vào không gian kín như hầm ga, cống thoát nước thông qua đường ống mềm. Thiết bị này liên tục hút khí sạch ngoài trời và tạo áp suất dương để đẩy khí bẩn ra ngoài, đảm bảo lưu thông không khí, duy trì nồng độ oxy và giảm thiểu các khí độc hại.

Điểm nổi bật của “Thiết bị thông gió đa năng” là thiết kế nhỏ gọn, dễ vận hành, sử dụng nguồn điện 12V từ bình acquy nên không phụ thuộc vào nguồn điện bên ngoài. Ngoài chức năng thông gió, thiết bị còn có thể cung cấp tạm thời nguồn điện 220V (công suất tối đa 1800W) cho các dụng cụ cầm tay khi thi công tại hiện trường. Sản phẩm này đã được UDC triển khai bàn giao cho 15 đơn vị trực thuộc và đưa vào sử dụng thực tế vào cuối năm 2024, góp phần nâng cao hiệu quả cũng như an toàn trong công tác thoát nước đô thị.

 

Tập huấn sử dụng thiết bị quạt thông gió đa năng tại Công ty TNHH MTV Thoát nước đô thị TP.HCM (Nguồn: https://www.udc.com.vn)

 

Nghiên cứu trang phục và thiết bị bảo hộ cho nhân viên y tế

Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu nhằm tạo ra môi trường làm việc an toàn cho nhân viên y tế và hạn chế nguy cơ lây nhiễm chéo. Trong giai đoạn 2020-2023, Phòng Thí nghiệm trọng điểm Điều khiển số và Kỹ thuật hệ thống (Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM) đã phối hợp với Trường Đại học Y Dược TP.HCM triển khai hai đề tài: "Nghiên cứu thiết kế và chế tạo module container cách ly điều trị áp lực âm dã chiến cho bệnh nhân Covid áp dụng trong bệnh viện tuyến đầu chống dịch""Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo module container đệm cách ly, tự động khử khuẩn bề mặt áp dụng trong bệnh viện dã chiến". Tiếp nối kết quả đó, năm 2022 hai đơn vị tiếp tục thực hiện nhiệm vụ "Xây dựng giải pháp tổng thể về hệ thống bảo vệ an toàn nhân viên y tế, người bệnh trong các cơ sở điều trị tại Việt Nam", tập trung vào các biện pháp phòng chống lây nhiễm chéo trong thăm khám và điều trị, đặc biệt đối với các bệnh đường hô hấp. Nhiệm vụ đã được Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM nghiệm thu vào đầu năm 2023.

Kết quả của nghiên cứu đã mang đến nhiều sản phẩm ứng dụng tốt trong thực tiễn, tiêu biểu như bộ đồ bảo hộ PAPR với bộ lọc HEPA 13, tích hợp quạt hút pin lưu lượng >170 lít/phút, với tiếng ồn <80 dB và thời gian sử dụng trên 4 giờ; các loại mặt nạ cải tiến từ mặt nạ lặn (N95, nửa mặt, kín mặt, trùm đầu) cho nhân viên y tế; cùng mặt nạ cho bệnh nhân trong hệ thống NIV/HFNO và thở oxy lưu lượng cao được cải tiến từ mặt nạ lặn. Đáng chú ý, hệ thống PAPR và mặt nạ N95 cải tiến được kiểm định đạt tiêu chuẩn tương đương sản phẩm 3M nhập ngoại nhưng có chi phí chỉ bằng khoảng 1/10. Về hiệu quả kinh tế - xã hội, các sản phẩm này có tính ứng dụng cao trong việc xây dựng bệnh viện và phòng khám dã chiến lưu động, vừa tiết kiệm chi phí so với phòng cách ly áp lực âm cố định, vừa đảm bảo tiêu chuẩn về nhiệt độ, độ ẩm, thông khí, áp suất và an toàn vi sinh ở nhiều điều kiện khí hậu, góp phần tăng cường năng lực ứng phó dịch bệnh tại Việt Nam.

 

Mặt nạ với hệ thống làm mát khép kín cho nhân viên y tế (Nguồn: Kết quả nghiên cứu)

Bên cạnh các đề tài khoa học, sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội cũng có những ý tưởng sáng tạo nhằm hỗ trợ cho lực lượng y tế tuyến đầu. Tiêu biểu như giải pháp hữu ích “Áo bảo hộ có bộ phận làm mát tuần hoàn bằng dung dịch” (Số bằng VN2-0003489-000, công bố ngày 18/12/2023). Áo bảo hộ bao gồm 4 lớp trong đó có một hệ thống ống mềm dẫn nước làm mát. Nước được bơm từ bình chứa có đá đặt trong balo đeo sau lưng, sau khi làm mát sẽ tuần hoàn qua các ống trong áo rồi quay trở lại bình, tạo chu trình khép kín. Người dùng có thể điều chỉnh nhiệt độ làm mát bằng bơm. Thử nghiệm cho thấy chỉ cần khoảng 300g đá và 300-400 ml nước, hệ thống có thể duy trì mức nhiệt 26-27°C trong 2-4 giờ, phù hợp với khả năng thích nghi của cơ thể và tránh sốc nhiệt.

 

Áo bảo hộ có bộ phận làm mát bằng dung dịch (Nguồn: https://vnexpress.net)

Sản phẩm ban đầu được thiết kế cho nhân viên y tế làm việc trong môi trường có nhiều nguy cơ lây nhiễm bệnh: áo làm mát mặc bên trong, áo bảo hộ bên ngoài, balo đeo gọn nhẹ không gây vướng víu và có thể tiếp đá hoặc nước mà không cần tháo đồ bảo hộ. Ngoài lĩnh vực y tế, nhóm nghiên cứu nhận định áo làm mát còn hữu ích cho người lao động làm việc ngoài trời, như công nhân công trường, tài xế xe công nghệ hoặc những người giao hàng phải liên tục di chuyển ngoài đường trong thời gian dài.

***

So với các lĩnh vực công nghệ dẫn đầu về số lượng đăng ký sáng chế trên thế giới, các nghiên cứu tại Việt Nam mới chỉ góp mặt trong 3 lĩnh vực: Hệ thống thông gió và lọc khí, Thiết bị bảo hộ cá nhân và Công nghệ bảo vệ hô hấp, chưa ghi nhận nghiên cứu nào liên quan đến lĩnh vực Không gian làm việc công thái học. Mặc dù số lượng còn khiêm tốn, nhưng các kết quả đạt được đã cho thấy nỗ lực làm chủ công nghệ, vừa phục vụ cho sản xuất trang phục bảo hộ lao động, vừa mang lại lợi ích trực tiếp cho người lao động tại đơn vị nghiên cứu. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu hướng đến bảo vệ an toàn cho nhân viên y tế và ngăn ngừa lây nhiễm chéo trong đại dịch COVID-19 đã khẳng định rõ ý nghĩa thực tiễn và giá trị mang lại của các nghiên cứu này.

Việc phân tích dữ liệu sáng chế về công nghệ bảo vệ người lao động không chỉ giúp nhận diện xu hướng toàn cầu, mà còn là cơ sở để định hướng nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển công nghệ an toàn lao động tại Việt Nam. Trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và đô thị hóa ngày càng mở rộng, việc đầu tư cho các giải pháp công nghệ bảo hộ - từ trang phục, thiết bị bảo vệ đến hệ thống thông gió, lọc khí - sẽ góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Đây cũng là hướng ưu tiên cần được thúc đẩy trong các chương trình KH&CN giai đoạn tới, nhằm nâng cao năng lực tự chủ công nghệ và bảo vệ tốt hơn sức khỏe người lao động Việt Nam.

Duy Sang

----------------------------------------

Tài liệu tham khảo chính

[1] CSDL WIPO Publish. https://wipopublish.ipvietnam.gov.vn/
[2] WIPO. (2025). Patent Landscape Report - Occupational Health and Safety (OHS).
[3] Công ty TNHH MTV Thoát nước đô thị TP.HCM. (2024). UDC cung cấp quạt thông gió đa năng cho các đơn vị trực thuộc. https://www.udc.com.vn/udc-cung-cap-quat-thong-gio-da-nang-cho-cac-don-vi-truc-thuoc
[4] Dương Tâm. (2021). Sinh viên Bách khoa Hà Nội sáng chế áo làm mát cho y bác sĩ. https://vnexpress.net/sinh-vien-bach-khoa-ha-noi-sang-che-ao-lam-mat-cho-y-bac-si-4291122.html
[5] N.P.D. (2021). Nghiên cứu và xây dựng quy trình công nghệ sản xuất vải từ sợi Polyester chứa phụ gia kháng tia UV pha Viscose để may 2 quần áo bảo hộ lao động cho người làm việc ngoài trời: https://www.vista.gov.vn/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-va-xay-dung-quy-trinh-cong-nghe-san-xuat-vai-tu-soi-polyester-chua-phu-gia-khang-tia-uv-pha-viscose-de-may-2-quan-ao-bao-ho-lao-dong-cho-nguoi-lam-viec-ngoai-troi-3454.html
[6] N.P.D. (2022). Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất vải may quần áo bảo hộ cho người làm việc trong môi trường nhiệt độ thấp (5oC). https://www.vista.gov.vn/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-xay-dung-quy-trinh-cong-nghe-san-xuat-vai-may-quan-ao-bao-ho-cho-nguoi-lam-viec-trong-moi-truong-nhiet-do-thap-5oc-5598.html
[7] Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM. (2023). Xây dựng giải pháp tổng thể về hệ thống bảo vệ an toàn nhân viên y tế, người bệnh trong các cơ sở điều trị tại Việt Nam. https://dost.hochiminhcity.gov.vn/hoat-dong-so-khcn/xay-dung-giai-phap-tong-the-ve-he-thong-bao-ve-an-nhan-vien-y-te-nguoi-benh-trong-cac-co-so-dieu-tri-tai-viet-nam/l

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập