Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

kết quả thống kê

Phần 2: Đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp

Những tiến bộ trong nghiên cứu khoa học của người Việt được nhận diện và bảo vệ thông qua số lượng đơn và bằng độc quyền sáng chế ngày càng tăng (Bài viết: Đăng ký bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích, giai đoạn 1981-2021 – Thông tin chuyên đề KH,CN&ĐMST số 3/2023). Độc quyền kiểu dáng công nghiệp (KDCN) giúp chủ sở hữu bảo vệ các kết quả sáng tạo về kiểu dáng, nhất là khi ứng dụng trong sản xuất đại trà, mang lại lợi thế không nhỏ cho đơn vị và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

 

Tình hình nộp đơn và sở hữu bằng độc quyền KDCN

Từ năm 1998 đến năm 2021, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam đã tiếp nhận 53.258 đơn đăng ký độc quyền KDCN. Trong đó, năm 2019 là năm có số lượng đơn nhiều nhất (3.491 đơn). Kể từ năm 2005, số lượng đơn luôn vượt mức 1.000 đơn/năm và tăng trưởng khá ổn định. Tính đến cuối năm 2021, đã có 34.113 bằng độc quyền KDCN được Cục SHTT cấp. Từ năm 2006, số lượng bằng được cấp hàng năm đạt trên mức 1.000 bằng/năm, và có xu hướng tiếp tục gia tăng. Bắt đầu từ năm 2017, số bằng được Cục SHTT cấp đã vượt mốc 2.000 bằng/năm. Năm 2018 là năm có số bằng được cấp nhiều nhất (2.360 bằng).

Hình 1. Đơn đăng ký và bằng bảo hộ độc quyền KDCN đã cấp, giai đoạn 1988-2021 (Nguồn: ipvietnam.gov.vn)

 

Chủ thể nộp đơn đăng ký KDCN

Từ năm 1988 đến 2021, Cục SHTT đã nhận 37.081 đơn đăng ký độc quyền KDCN của người Việt, chiếm 70% và 16.181 đơn của người nước ngoài (khoảng 30%). Từ năm 2006, số lượng đơn do người Việt nộp trên mức 1.000 đơn/năm, đến năm 2021 số lượng đơn bắt đầu vượt mốc 2.000 đơn/năm. Số đơn do người nước ngoài đăng ký cũng có xu hướng tăng theo thời gian. Đến năm 2016 bắt đầu vượt mốc 1.000 đơn/năm.

Hình 2. Đơn đăng ký KDCN theo chủ thể sở hữu, giai đoạn 1988-2021 (Nguồn: ipvietnam.gov.vn)

 

Chủ thể sở hữu bằng độc quyền KDCN

Trong tổng số 34.113 bằng độc quyền KDCN được Cục SHTT cấp từ năm 1988 đến 2021, có 22.828 bằng độc quyền là của chủ thể người Việt (chiếm 67%), gấp 2 lần số bằng cấp cho người nước ngoài (11.285 bằng, khoảng 33%).

Hình 3. Chủ thể sở hữu bằng độc quyền KDCN, giai đoạn 1988-2021 (Nguồn: ipvietnam.gov.vn)

 

Chuyển giao, chuyển nhượng quyền sử dụng, quyền sở hữu về KDCN

Bên cạnh các hoạt động đăng ký bảo hộ độc quyền KDCN (tỉ lệ thuận với đó là số lượng bằng bảo hộ được cấp) đang liên tục gia tăng, việc chuyển giao, chuyển nhượng quyền sử dụng và quyền sở hữu KDCN cũng đang phát triển. Trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2021, đã có 69 đơn đăng ký chuyển quyền sử dụng KDCN và 70 hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng theo các đối tượng đã được đăng ký.

Hình 4. Tình hình chuyển giao quyền sử dụng KDCN giai đoạn 2011-2021 (Nguồn: ipvietnam.gov.vn)

Đối với giao dịch chuyển quyền sở hữu đối tượng KDCN, theo thống kê của Cục SHTT, số lượng đơn đăng ký chuyển nhượng lên đến 821 đơn trong giai đoạn 1988-2021; số hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng đã được đăng ký là 753 hợp đồng. Số hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu KDCN nhiều nhất ghi nhận được phát sinh trong năm 2021, với 158 hợp đồng.

Hình 5. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu KDCN, giai đoạn 2011-2021 (Nguồn: ipvietnam.gov.vn)

Có thể thấy, trong 10 năm qua, việc chuyển nhượng quyền sở hữu các đối tượng bảo hộ về KDCN được các chủ thể ưu tiên giao dịch hơn (gấp đôi) so với việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng được bảo hộ về KDCN.

Minh Thư

 

Mời Quý vị theo dõi tiếp Phần 3: Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập