Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

kết quả thống kê

Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT) bao gồm các nội dung nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KH&CN, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN. Phân tích dưới đây được rút ra từ kết quả điều tra NC&PT trên địa bàn TP.HCM trong các năm 2018, 2020, 2022 và 2024.

 

Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.

Điều tra NC&PT là hoạt động điều tra theo Chương trình điều tra thống kê Quốc gia, được tiến hành 2 năm một lần. Kết quả điều tra được sử dụng để đánh giá thực trạng, phân tích xu hướng thay đổi, xây dựng kế hoạch, chiến lược về NC&PT trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó là đánh giá kết quả thực hiện các chính sách về phát triển KH&CN, so sánh quốc tế về các chỉ tiêu thống kê NC&PT và xây dựng cơ sở dữ liệu về NC&PT của Việt Nam phục vụ các phân tích chuyên sâu, làm tiền đề cho các cuộc điều tra của các năm tiếp theo.

 

1. Tổ chức nghiên cứu và phát triển

Kết quả điều tra cho thấy, tính đến năm 2023, cả nước có 461 tổ chức có hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong đó, TP.HCM có 89 tổ chức, chiếm tỷ lệ 19,3% (Hình 1).

Hình 1. Tổng số tổ chức NC&PT trên cả nước tính đến 31/12/2023

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2024, Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Ngoài TP. Hà Nội và TP.HCM, số lượng tổ chức NC&PT ở các tỉnh, thành khác đều khá ít (tỷ lệ dưới 10% so với cả nước). Đặc biệt là tại các vùng cao, điều kiện phát triển khó khăn như khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Nam Bộ (trừ TP.HCM), số tổ chức NC&PT chiếm chưa đến 3%.

 

2. Nhân lực nghiên cứu và phát triển

Nhân lực NC&PT là những người tham gia trực tiếp vào hoạt động NC&PT trong cơ quan/tổ chức. Nguồn nhân lực này bao gồm: cán bộ nghiên cứu, nhân viên kỹ thuật và nhân viên hỗ trợ.

  • Cán bộ nghiên cứu là những cán bộ chuyên nghiệp có trình độ từ cao đẳng/đại học trở lên tham gia vào quá trình tạo ra tri thức, sản phẩm và quy trình mới, tạo ra phương pháp và hệ thống mới (đối với các tổ chức không phải là đơn vị NC&PT chuyên nghiệp thì cán bộ nghiên cứu là những người trực tiếp tham gia thực hiện các đề tài NC&PT); dành tối thiểu 10% thời gian cho hoạt động NC&PT.
  • Nhân viên kỹ thuật là những người thực hiện các công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật trong những lĩnh vực KH&CN và tham gia vào NC&PT bằng việc thực hiện những nhiệm vụ khoa học và kỹ thuật có áp dụng những khái niệm và phương pháp vận hành dưới sự giám sát của các nhà nghiên cứu. Nhóm này gồm kỹ thuật viên, nhân viên phòng thí nghiệm có trình độ trung cấp và tương đương.
  • Nhân viên hỗ trợ là những người có hoặc không có kỹ năng, nhân viên hành chính, văn phòng tham gia vào các dự án/đề tài NC&PT. Nhóm này tính cả những người làm về nhân sự, tài chính và hành chính trực tiếp phục vụ công việc NC&PT của các tổ chức NC&PT.

Tính đến ngày 31/12/2023, trên địa bàn TP.HCM có 29.086 nhân lực NC&PT, gồm 24.498 cán bộ nghiên cứu, 764 nhân viên kỹ thuật và 3.824 nhân viên hỗ trợ (Hình 2). Trong giai đoạn 2017 - 2023, số lượng cán bộ nghiên cứu có xu hướng tăng ổn định, trong khi nhân viên kỹ thuật giảm dần qua các năm và hiện chiếm tỷ lệ thấp hơn đáng kể so với hai nhóm còn lại.

Hình 2. Tổng nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Chức năng làm việc.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Năm 2023, tỷ lệ nhân lực NC&PT là nữ theo ba nhóm chức năng lần lượt là: 49,1% ở nhóm cán bộ nghiên cứu, 40,3% ở nhóm nhân viên kỹ thuật và 57,5% ở nhóm nhân viên hỗ trợ (Hình 3). Nhìn chung, sự chênh lệch giới tính không quá lớn, song có thể thấy nữ giới chiếm ưu thế trong nhóm nhân viên hỗ trợ. Ngược lại, nam giới có tỷ lệ trung bình cao hơn ở nhóm cán bộ nghiên cứu và nhân viên kỹ thuật, lần lượt cao hơn 8,6% và 15,1% so với nữ.

Hình 3. Tỷ lệ nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Giới tính.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Xét theo thành phần kinh tế, nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM tập trung chủ yếu trong khu vực nhà nước và duy trì ở mức rất cao, dao động từ 95,4% đến 97,5% trong giai đoạn 2017 - 2023. Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Tỷ lệ này có xu hướng tăng dần từ 2,5% năm 2017 lên 4,6% vào năm 2021, cho thấy sự mở rộng dần vai trò của khu vực ngoài nhà nước trong hoạt động NC&PT. Tuy nhiên, đến năm 2023 con số này lại giảm còn 3,2%, phản ánh sự sụt giảm về tỷ trọng nhân lực NC&PT ở khu vực này so với khu vực nhà nước (Hình 4).

Hình 4. Tỷ lệ nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Thành phần kinh tế.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Xét theo khu vực hoạt động, nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM tập trung chủ yếu trong các tổ chức giáo dục đại học (Hình 5). Trong giai đoạn 2017 - 2023, tỷ lệ nhân lực NC&PT có sự dịch chuyển, giảm dần trong khu vực nghiên cứu (tổ chức NC&PT; cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng) và tăng dần trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp và các tổ chức dịch vụ KH&CN.

Hình 5. Nhân lực NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Khu vực hoạt động.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

 

Cán bộ nghiên cứu

Tính đến ngày 31/12/2023, trên địa bàn TP.HCM có 24.498 cán bộ nghiên cứu (CBNC), trong đó lực lượng thạc sĩ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 10.978 người, tiếp đến là trình độ đại học (7.008 người) và tiến sĩ (5.550 người), trong khi trình độ cao đẳng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (962 người) (Hình 6). Nhìn chung, giai đoạn 2017 - 2023 ghi nhận sự gia tăng ổn định về số lượng CBNC, đồng thời chất lượng chuyên môn cũng có sự chuyển biến tích cực, thể hiện rõ qua mức tăng mạnh của đội ngũ có trình độ sau đại học. Đặc biệt, số lượng tiến sĩ đã tăng từ 3.476 người năm 2017 lên 5.550 người năm 2023, còn thạc sĩ tăng từ 8.760 lên gần 11.000 người, cho thấy xu hướng nâng cao trình độ và chuyên môn hóa trong lực lượng nghiên cứu.

Hình 6. Tổng số cán bộ nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Trình độ.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Biểu đồ so sánh tỷ lệ CBNC theo trình độ chuyên môn trong giai đoạn 2017 - 2023 cho thấy, tỷ lệ nhân lực có trình độ thạc sĩ chiếm ưu thế, dao động từ 44,8% đến 54,5% và đạt mức trung bình khoảng 50% trên tổng số CBNC. Tỷ lệ tiến sĩ nhìn chung có xu hướng tăng nhẹ trong giai đoạn 2017 - 2021, từ 21,6% lên 25,2%, nhưng đến năm 2023 lại giảm còn 22,7%. Đối với nhóm có trình độ đại học, năm 2023 có tỷ lệ cao nhất (28,6%). Riêng nhóm cao đẳng chiếm tỷ lệ thấp nhất, với có xu hướng tăng dần từ 1,1% năm 2017 lên 3,9% năm 2023 (Hình 7).

Hình 7. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Trình độ.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Trong giai đoạn 2017 - 2023, tỷ lệ CBNC nam và nữ nhìn chung khá cân đối ở trình độ thạc sĩ (Hình 8). Trong nhóm đại học và cao đẳng, tỷ lệ nữ có xu hướng tăng mạnh, đến năm 2023 đã vượt trội so với nam (63,5% ở đại học và 68,3% ở cao đẳng). Ngược lại, ở bậc tiến sĩ, nam giới vẫn chiếm ưu thế rõ rệt, mặc dù tỷ lệ có xu hướng giảm dần từ 72% năm 2017 xuống 65,9% năm 2023. Mặc dù thấp hơn, nhưng tỷ lệ nữ trình độ tiến sĩ đã có sự cải thiện đáng kể và đã dần thu hẹp khoảng cách qua các năm. Có thể xem đây là kết quả của các chính sách khuyến khích bồi dưỡng, đào tạo đối với cán bộ nữ làm công tác nghiên cứu, qua đó thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực nữ với trình độ chuyên môn cao trong hoạt động nghiên cứu KH&CN tại các cơ quan, đơn vị.

Hình 8. Cán bộ nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023 theo Trình độ và Giới tính.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Xét theo lĩnh vực KH&CN trong giai đoạn 2017 - 2023, tỷ lệ CBNC trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ (KT&CN) và khoa học xã hội có xu hướng giảm dần qua các năm. Ngược lại, lĩnh vực khoa học y, dược có xu hướng tăng trưởng mạnh, từ 13,8% năm 2017 lên 33,9% năm 2023, trở thành lĩnh vực có tỷ lệ CBNC cao nhất trong năm 2023 (Hình 9). Xu hướng này phản ánh rõ nhu cầu ngày càng lớn đối với nghiên cứu trong y tế và chăm sóc sức khỏe, gắn liền với bối cảnh dân số già hóa, những thách thức từ dịch bệnh và yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây cũng là tín hiệu cho thấy sự ưu tiên nguồn lực nghiên cứu đang dần tập trung vào các ngành có tác động trực tiếp đến đời sống con người.

Hình 9. Cán bộ nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Trình độ và Lĩnh vực KH&CN.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

 

3. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển

Theo kết quả điều tra trên địa bàn TP.HCM, tổng đầu tư cho hoạt động NC&PT năm 2023 là hơn 1.781 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2021 (Hình 10).

Hình 10. Tổng chi cho NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023 (ĐVT: triệu đồng).

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Trong năm 2023, tỷ lệ chi cho hoạt động NC&PT trên địa bàn TP.HCM từ các tổ chức của nhà nước là 94% và từ các tổ chức ngoài nhà nước là 6% (Hình 11). So sánh trong giai đoạn 2017 - 2023, khu vực ngoài nhà nước từng ghi nhận mức đầu tư cao hơn trong các năm 2019 (15,6%) và 2021 (12,8%) so với năm 2017 (3,9%) và năm 2023 (6,0%). Điều này cho thấy mặc dù khu vực ngoài nhà nước đã có sự tham gia tích cực hơn trong một số thời điểm, nhưng nhìn chung tỷ trọng đầu tư cho NC&PT vẫn chủ yếu tập trung ở khu vực nhà nước, phản ánh thực tế, hoạt động NC&PT tại TP.HCM hiện nay vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn lực công.

Hình 11. Tỷ lệ chi cho NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Thành phần kinh tế

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Hình 12 cho thấy, các tổ chức NC&PT và tổ chức giáo dục đại học là hai loại hình tổ chức đầu tư nhiều vào hoạt động NC&PT. Trong khi cơ cấu tỷ lệ chi của các tổ chức NC&PT giảm dần từ 54,5% năm 2017 xuống còn 33,2% năm 2023, thì các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng lại có xu hướng tăng mạnh từ 31,1% lên tới 64,3% trong cùng giai đoạn. Các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng đã cho thấy sự quan tâm ngày càng cao cho hoạt động NC&PT.

Hình 12. Tỷ lệ chi cho NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Loại hình tổ chức.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Xét theo nguồn cấp kinh phí cho hoạt động NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017 - 2023, ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo với xu hướng tăng dần và đạt mức cao nhất 74% vào năm 2021, nhưng đến năm 2023, tỷ trọng này đã giảm mạnh xuống còn 41,2%. Ngược lại, nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước có sự bứt phá đáng kể, từ mức trung bình khoảng 20% trong giai đoạn 2017-2021 đã tăng vọt lên 55% vào năm 2023, trở thành nguồn đóng góp lớn nhất trong cơ cấu chi cho NC&PT. Trong khi đó, nguồn kinh phí từ nước ngoài lại có xu hướng giảm liên tục, từ 6,9% năm 2021 xuống còn 3,8% năm 2023. Diễn biến này cho thấy xu hướng tích cực trong việc huy động nguồn lực xã hội và doanh nghiệp tham gia đầu tư cho NC&PT, góp phần giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sự suy giảm tỷ lệ đóng góp từ nguồn nước ngoài cũng đặt ra yêu cầu TP.HCM cần có chính sách thu hút hợp tác quốc tế mạnh mẽ hơn để đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho hoạt động NC&PT.

Hình 13. Tỷ lệ chi cho NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Nguồn cấp kinh phí.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

Trong giai đoạn 2017 - 2023, khoa học kỹ thuật và công nghệ nhìn chung vẫn là lĩnh vực được đầu tư nhiều nhất trong 6 lĩnh vực KH&CN, cao nhất nào năm 2021 (52,2%) (Hình 14). Tuy nhiên, trong năm 2023, tỷ lệ chi đầu tư cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ có sự suy giảm, chỉ còn 27,7% so với mức 52,2% năm 2021. Ngược lại, lĩnh vực khoa học xã hội có sự gia tăng rõ rệt, từ 10% năm 2017 lên 43,9% năm 2023. Còn tỷ lệ đầu tư cho khoa học nhân văn vẫn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn so với các lĩnh vực khác.

Hình 14. Tỷ lệ chi cho NC&PT trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2017-2023, theo Lĩnh vực nghiên cứu.

Nguồn: Điều tra NC&PT năm 2018,2020,2022,2024 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia.

***

Kết quả điều tra NC&PT trên địa bàn TP.HCM qua 4 năm gần nhất (2018, 2020, 2022, 2024) đã cho thấy những chuyển biến tích cực trong hoạt động NC&PT. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao ngày càng gia tăng, tỷ lệ nữ giới tham gia nghiên cứu được cải thiện đáng kể, đồng thời xã hội cũng đóng góp nhiều hơn cho đầu tư NC&PT. Bên cạnh đó, việc nhân lực và kinh phí tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa học KT&CN và khoa học xã hội, đã cho thấy định hướng của TP.HCM trong việc thúc đẩy nghiên cứu phát triển kinh tế và các ngành công nghiệp trọng điểm.

Duy Sang - Lê An

----------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ KH&CN. (2023). Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2022. Hà Nội: NXB Khoa học và Kỹ thuật.
[2] Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2017, 2019, 2021, 2023). Dữ liệu Điều tra nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trích xuất trên địa bàn TP.HCM.
[3] CESTI. (2019). [Infographic] Nghiên cứu khoa học và Phát triển công nghệ TP.HCM giai đoạn 2012-2018. http://thongke.cesti.gov.vn/phan-tich-thong-ke/ket-qua-thong-ke/647-nghien-cuu-khoa-hoc-va-phat-trien-cong-nghe-tphcm-2012-2018.

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập