Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

kết quả thống kê

Phần 4: Đăng ký nhãn hiệu

Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phải là những dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu có thể là thương hiệu, logo, hình ảnh và bao bì sản phẩm.

 

Một nhãn hiệu tồn tại mà không đăng ký sẽ gặp nhiều rủi ro pháp lý. Thứ nhất là không được độc quyền đối với nhãn hiệu do mình tạo ra và cũng không thể ngăn cản người khác sử dụng nhãn hiệu đó. Nghĩa là, cho dù doanh nghiệp có đầu tư bao nhiêu để tạo ra nhãn hiệu, nhưng một bên bất kỳ nào đó cũng có thể sử dụng nhãn hiệu đó mà không phải xin phép hoặc không phải trả bất kỳ một khoản chi phí nào để sử dụng. Rủi ro thứ hai là bị chiếm quyền nhãn hiệu. Nếu doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu trên thị trường mà không đăng ký trước, sẽ tạo điều kiện cho một bên khác cố tình (hoặc vô tình) đăng ký nhãn hiệu trùng (hoặc tương tự) với nhãn hiệu mà doanh nghiệp đang sử dụng. Sau khi bên khác đã đăng ký nhãn hiệu thành công, họ có quyền yêu cầu doanh nghiệp dừng sử dụng nhãn hiệu trên thị trường. Vì vậy, việc đăng ký nhãn hiệu là hết sức quan trọng, doanh nghiệp cần phải tiến hành đăng ký trước khi đưa sản phẩm ra thị trường.

Theo báo cáo thường niên hoạt động SHTT năm 2020, trong giai đoạn 2010-2020, có 429.836 đơn đăng ký nhãn hiệu và 235.103 giấy chứng nhận nhãn hiệu đã được cấp tại Việt Nam. Số đơn đăng ký có xu hướng tăng qua từng năm trong khi số lượng giấy chứng nhận nhãn hiệu đã cấp có sự biến động trong giai đoạn 2010-2018 và tăng mạnh trong hai năm gần đây. Tỉ lệ được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020 đạt 54,7% (Hình 1).

Hình 1. Tình hình đăng ký nhãn hiệu và cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020

Xét theo người nộp đơn, 80,7% đơn đăng ký nhãn hiệu là của người Việt Nam với 347.067 đơn, trong khi đó số đơn của người nước ngoài chiếm 19,3% với 82.769 đơn. Phần lớn giấy chứng nhận nhãn hiệu cũng được cấp cho người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 75,8%. Khi xem xét tỉ lệ được cấp giấy chứng nhận, mặc dù người nộp đơn Việt Nam có số lượng giấy chứng nhận nhãn hiệu được cấp nhiều hơn nhưng người nộp đơn nước ngoài mới có xác suất được cấp giấy chứng nhận thành công cao hơn (người nước ngoài: 68,8%, người Việt Nam: 51,3%) (Hình 2).

Hình 2. Tỉ lệ đơn đăng ký nhãn hiệu và giấy chứng nhận nhãn hiệu đã được cấp theo người nộp đơn giai đoạn 2010-2020

Xét theo thời gian, số đơn đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn Việt Nam tăng trưởng cao trong giai đoạn 2010-2020, con số này của năm 2020 đạt 47.293 đơn, tăng 123% so với năm 2010. Trong khi đó, số đơn đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn nước ngoài tăng chậm hơn với 8.286 đơn trong năm 2020, tăng 23% so với năm 2010 (Hình 3).

Hình 3. Đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam theo người nộp đơn giai đoạn 2010-2020

Trong giai đoạn 2010-2018, số lượng giấy chứng nhận nhãn hiệu đã cấp cho cả người nộp đơn nước ngoài và Việt Nam có sự biến động, sau đó những con số này có xu hướng tăng trong hai năm gần đây.

Hình 4. Giấy chứng nhận nhãn hiệu đã được cấp tại Việt Nam theo người nộp đơn giai đoạn 2010-2020

 

Qua bốn phần của chuỗi bài về “Đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020”, có thể thấy, việc đăng ký bảo hộ SHTT (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu) nhìn chung có xu hướng tăng trong giai đoạn 2010-2020. Điều này cho thấy các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của SHTT cũng như có những bước đi đúng đắn khi đăng ký bảo hộ SHTT để bảo vệ quyền lợi của mình.

Đối với sáng chế: đơn đăng ký và bằng độc quyền sáng chế được cấp chủ yếu là của người nộp đơn nước ngoài (số đơn của người nước ngoài chiếm 89,4%; số bằng của người nước ngoài chiếm 94,9%). Tỉ lệ được cấp bằng thành công của người nộp đơn nước ngoài cũng cao hơn người Việt Nam (nước ngoài - 35,9%; Việt Nam - 16,1%).

Đối với giải pháp hữu ích: đơn đăng ký và bằng độc quyền giải pháp hữu ích chủ yếu là của người nộp đơn Việt Nam (số đơn của người Việt Nam chiếm 67,5%; số bằng của người Việt Nam chiếm 75,7%). Tỉ lệ được cấp bằng thành công của người nộp đơn Việt Nam cũng cao hơn người nộp đơn nước ngoài (Việt Nam - 40,7%; nước ngoài - 27,1%).

Đối với kiểu dáng công nghiệp: đơn đăng ký và bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp chủ yếu là của người nộp đơn Việt Nam (số đơn của người Việt Nam chiếm 62,7%; số bằng của Việt Nam chiếm 59,8%). Mặc dù số lượng bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp được cấp cho người Việt Nam nhiều hơn nhưng khi xem xét tỉ lệ được cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp thì người nộp đơn nước ngoài có xác suất được cấp bằng thành công cao hơn so với người Việt Nam (nước ngoài - 70,7%; Việt Nam - 62,6%).

Đối với nhãn hiệu: đơn đăng ký và giấy chứng nhận nhãn hiệu chủ yếu là của người nộp đơn Việt Nam (số đơn của người Việt Nam chiếm 80,7%; số giấy chứng nhận của người Việt Nam chiếm 75,8%. Mặc dù người nộp đơn Việt Nam có số lượng giấy chứng nhận nhãn hiệu được cấp nhiều hơn nhưng người nộp đơn nước ngoài mới có tỉ lệ được cấp giấy chứng nhận thành công cao hơn (nước ngoài - 68,8%; Việt Nam - 51,3%).

Như Hà

--------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo

[1] Báo cáo thường niên hoạt động SHTT năm 2020.
[2] Nhãn hiệu. https://ipvietnam.gov.vn/nhan-hieu

 

Xem Phần 1: Tình hình đăng ký bảo hộ SÁNG CHẾ

Xem Phần 2: Tình hình đăng ký bảo hộ GIẢI PHÁP HỮU ÍCH

Xem Phần 3: Tình hình đăng ký bảo hộ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập