Vui lòng điền đầy đủ các thông tin sau

kết quả thống kê

Số liệu thống kê ngành KH&CN TP. HCM năm 2021 được tổng hợp từ dữ liệu báo cáo của các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM và từ hồ sơ quản lý của Sở KH&CN TP.HCM tính đến 31/12/2021, theo quy định tại Thông tư 15/2018/TT-BKHCN về việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê ngành KH&CN hàng năm.

Số liệu thống kê ngành KH&CN của TP.HCM năm 2021 được biểu diễn bằng các biểu đồ trực quan như sau:

 

SỐ TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Tính đến 31/12/2021, có tổng cộng 356 tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM đang hoạt động, trong đó có 342 tổ chức KH&CN đăng ký hoạt động tại Sở KH&CN và 14 viện, trường thuộc quản lý trực tiếp của UBND TP.HCM.

Theo loại hình kinh tế, chiếm phần lớn là các tổ chức KH&CN ngoài nhà nước (73,9%), tổ chức KH&CN của nhà nước chiếm 26,1%.

Theo loại hình tổ chức, tổ chức nghiên cứu và phát triển chiếm tỷ lệ cao nhất (51,1%), kế đến là các tổ chức dịch vụ KH&CN (44,9%). Các trường đại học, cao đẳng do TP.HCM quản lý trực tiếp chiếm 3,9%.

Theo lĩnh vực KH&CN, 48,3% các tổ chức KH&CN hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ (KT&CN), kế đến là khoa học xã hội (30,1%), thấp nhất là lĩnh vực khoa học nhân văn (2%).

Từ năm 1993 đến nay, số lượng tổ chức đăng ký hoạt động KH&CN có xu hướng tăng dần. Qua các năm, từ vài tổ chức mới/năm, đến giai đoạn 2018-2021 trung bình hàng năm đã có hơn 30 tổ chức KH&CN đăng ký mới.

 

Cơ sở dữ liệu trực tuyến: Số tổ chức khoa học và công nghệ năm 2021

 

SỐ NGƯỜI TRONG CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Tính đến 31/12/2021, có 7.505 người đang làm việc trong các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM (theo số liệu báo cáo của 230/356 tổ chức KH&CN). Trong đó, nhân lực nữ chiếm 46,2%. Có chênh lệch lớn về giới tính ở trình độ tiến sĩ. Các trình độ còn lại ít có sự khác biệt.

Theo trình độ chuyên môn, phần lớn nhân lực làm việc trong các tổ chức KH&CN đều đạt trình độ từ đại học trở lên. Trong đó, nhân lực trình độ đại học và thạc sĩ chiếm đa số, với tỷ lệ lần lượt là 39% và 34,8%, nhân lực đạt trình độ tiến sĩ chiếm tỷ lệ 12,1%, chỉ có 3% nhân lực trình độc cao đẳng và 11,1% nhân lực trình độ thấp hơn, tham gia các công tác hỗ trợ trong các tổ chức KH&CN.

Nhân lực trình độ thạc sĩ chiếm chủ yếu trong các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, do quy định về chuẩn trình độ đối với giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học (được quy định trong Khoản 2, Điều 5, Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT). Ngược lại, phần lớn nhân lực trong các tổ chức NC&PT và tổ chức dịch vụ KH&CN ở trình độ đại học.

Theo lĩnh vực đào tạo, nhân lực trong các tổ chức KH&CN chủ yếu được đào tạo trong 2 lĩnh vực: khoa học KT&CN và khoa học xã hội với tỷ lệ lần lượt là 29,8% và 29,7%.

Về độ tuổi, nhân lực ngành KH&CN tập trung chủ yếu trong độ tuổi lao động: nhóm tuổi “Đến 35 tuổi” chiếm 39,6% và “Từ 36-55 tuổi” chiếm 51,4%. Trình độ của nhân lực KH&CN cũng có sự chuyển biến rõ rệt theo các nhóm tuổi, nếu nhóm “Đến 35 tuổi” có số lượng nhân lực trình độ đại học chiếm phần lớn, thì đến nhóm “36-55 tuổi” đã thấy rõ nhân lực trình độ thạc sĩ và tiến sĩ là chủ yếu. Ngoài ra, có thể thấy ở các nhóm tuổi trên 60, người tham gia hoạt động KH&CN đa phần là nhân lực có trình độ tiến sĩ.

 

Cơ sở dữ liệu trực tuyến: Số người trong các tổ chức KH&CN năm 2021

 

CHI CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Tổng chi ngân sách Thành phố cho hoạt động KH&CN năm 2021 là 2.004 tỷ đồng, trong đó 48,4% chi cho hoạt động đầu tư phát triển KH&CN, còn lại là chi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN và chi triển khai các dự án, hạng mục ứng dụng công nghệ thông tin trên địa bàn Thành phố.

 

NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Trong năm 2021, có 203 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh/thành phố đang được triển khai thực hiện. Trong đó, 39 nhiệm vụ mới được phê duyệt trong năm 2021, 164 nhiệm vụ chuyển tiếp từ các năm trước. Lĩnh vực được nghiên cứu nhiều nhất là khoa học kỹ KT&CN (51,7%), kế đến là khoa học y, dược (18,2%) và khoa học nông nghiệp (14,8%).

Xét theo các mục tiêu kinh tế - xã hội, 3 nội dung chiếm phần lớn trong các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh/thành phố là: phát triển y tế và bảo vệ sức khỏe con người, phát triển sản xuất và công nghệ nông nghiệp và phát triển sản xuất và công nghệ công nghiệp. Trong đó, mục tiêu “phát triển y tế và bảo vệ sức khỏe con người” có tỷ lệ cao nhất, chiếm 28,6% trong tổng số 203 nhiệm vụ đang thực hiện và chiếm 30,8% trong 39 nhiệm vụ mới được phê duyệt trong năm 2021.

 

HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Theo báo cáo của các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM trong năm 2021, có 39 nhiệm vụ KH&CN hợp tác với các tổ chức nước ngoài thực hiện, với tổng kinh phí 61,5 tỷ đồng. Trong đó, phần lớn là các nhiệm vụ hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học KT&CN.

Nhiệm vụ KH&CN hợp tác quốc tế theo hình thức đa phương chiếm phần lớn (60,9%) trong tổng kinh phí thực hiện. Theo nguồn cấp kinh phí, các nhiệm vụ KH&CN chủ yếu từ nguồn kinh phí nước ngoài (91,1%). Theo cấp quản lý, nhiều nhất là kinh phí chi cho các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh/thành phố (67,7%). Theo nước/tổ chức hợp tác, kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN hợp tác quốc tế chủ yếu từ các nước như: Bỉ (29,8%), Úc (19,3%) và Hoa Kỳ (10,1%), …

 

DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Tính đến 31/12/2021, TP.HCM có 102 doanh nghiệp KH&CN đã đăng ký giấy phép hoạt động tại Sở KH&CN TP.HCM, trong đó có 7 doanh nghiệp mới đăng ký trong năm 2021. Giai đoạn từ 2009-2021, số lượng đăng ký doanh nghiệp KH&CN có tăng nhưng không đồng đều. Số doanh nghiệp KH&CN đăng ký nhiều nhất là vào năm 2018.

Theo thành phần kinh tế, các doanh nghiệp KH&CN chủ yếu là ngoài nhà nước, chỉ có 1 doanh nghiệp KH&CN của nhà nước là Công ty TNHH MTV Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung. Theo ngành kinh tế, nhiều nhất là các doanh nghiệp KH&CN hoạt động trong ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm tỷ lệ 38,2%) và ngành Thông tin và Truyền thông (chiếm tỷ lệ 28,4%).

 

NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ, AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN

Tính đến 31/12/2021, TP.HCM có 2.936 người hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Chia theo lĩnh vực hoạt động, có đến 94,9% nhân lực này làm việc trong các đơn vị cung cấp dịch vụ, 4,9% làm việc trong các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, chỉ 0,2% làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước. Chia theo lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử, nhiều nhất là nhân lực làm việc trong ngành y tế với 84,1%, 12,4% làm việc trong ngành công nghiệp, kinh tế kỹ thuật, 3,3% trong ngành nông nghiệp và chỉ 0,2% trong ngành tài nguyên và môi trường.

Nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đa phần làm việc trong các đơn vị thuộc thành phần kinh tế nhà nước (60,6%), khu vực ngoài nhà nước chiếm 35,5%, chỉ 3,9% người làm việc trong các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài.

 

Duy Sang

Back to top

Chưa có tài khoản Đăng ký ngay!

Đăng nhập