Số liệu thống kê ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) TP.HCM năm 2023 được tổng hợp từ dữ liệu báo cáo của các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của Thành phố và từ hồ sơ quản lý của Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM, tính đến 31/12/2023, theo quy định tại Thông tư 15/2018/TT-BKHCN về việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê ngành KH&CN hàng năm.
Số liệu thống kê ngành KH&CN của TP.HCM năm 2023 được biểu diễn bằng các biểu đồ trực quan, theo 8 nội dung như sau:
1. SỐ TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Tính đến 31/12/2023, có 407 tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM đang hoạt động (bao gồm 392 tổ chức được Sở KH&CN TP.HCM cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KH&CN từ năm 1993 đến nay và 15 viện, trường thuộc quản lý trực tiếp của UBND TP.HCM). Trong số này, có 27 tổ chức mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KH&CN trong năm 2023.
- Theo loại hình kinh tế, chiếm phần lớn là các tổ chức KH&CN ngoài nhà nước (74,4%), tổ chức KH&CN của nhà nước chiếm 25,3%. Ngoài ra, có 1 tổ chức KH&CN có vốn đầu tư nước ngoài.
- Theo cấp quyết định thành lập, có 4 tổ chức KH&CN do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập là Học viện Cán bộ TP.HCM, Trường Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM. Có 21 tổ chức KH&CN được UBND TP.HCM ra quyết định thành lập như: Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM, Trung tâm Công nghệ Sinh học (trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TP.HCM), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao (trực thuộc Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao),… Có 33 tổ chức KH&CN do các Hội, Hiệp hội, Liên hiệp Hội thành lập và 327 tổ chức KH&CN do các đơn vị khác thành lập (chẳng hạn như: Đại học, Trường Đại học, Trường Cao đẳng, các Viện, Trung tâm, các doanh nghiệp và cá nhân tự thành lập).
- Theo loại hình tổ chức, tổ chức nghiên cứu và phát triển chiếm tỷ lệ cao nhất (49,9%), kế đến là các tổ chức dịch vụ KH&CN (46,7%). Các trường đại học, cao đẳng do TP.HCM quản lý trực tiếp chiếm 3,4%.
- Theo lĩnh vực KH&CN, 48,6% các tổ chức KH&CN hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, kế đến là khoa học xã hội (29,2%), thấp nhất là lĩnh vực khoa học nhân văn (1,8%).
Cơ sở dữ liệu trực tuyến: Số tổ chức khoa học và công nghệ năm 2023
2. SỐ NGƯỜI TRONG CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Tính đến 31/12/2023, có 8.244 người đang làm việc trong các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM (theo số liệu báo cáo của 256/407 tổ chức KH&CN). Trong đó, nhân lực nữ chiếm 46%. Có chênh lệch lớn về giới tính ở trình độ tiến sĩ. Các trình độ còn lại ít có sự khác biệt.
Theo trình độ chuyên môn, phần lớn nhân lực làm việc trong các tổ chức KH&CN đều đạt trình độ từ đại học trở lên. Trong đó, nhân lực trình độ đại học và thạc sĩ chiếm đa số, với tỷ lệ lần lượt là 40,3% và 34,9%, nhân lực đạt trình độ tiến sĩ chiếm tỷ lệ 13,9%. Ngoài ra, có 3,1% nhân lực trình độ cao đẳng và 7,9% nhân lực trình độ thấp hơn tham gia vào công tác hỗ trợ trong các tổ chức KH&CN.
Theo loại hình tổ chức KH&CN, nhân lực trình độ thạc sĩ chiếm chủ yếu trong các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, do quy định về chuẩn trình độ đối với giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học (được quy định trong Khoản 2, Điều 5, Thông tư 40/2020/TT-BGDĐT). Ngược lại, phần lớn nhân lực trong các tổ chức NC&PT và tổ chức dịch vụ KH&CN ở trình độ đại học.
Theo lĩnh vực đào tạo, nhân lực trong các tổ chức KH&CN chủ yếu được đào tạo trong 2 lĩnh vực: khoa học kỹ thuật và công nghệ (32,4%) và khoa học xã hội (26,9%).
Về độ tuổi, nhân lực ngành KH&CN tập trung chủ yếu trong độ tuổi lao động: nhóm tuổi “Đến 35 tuổi” chiếm 34,5%, “Từ 36-45 tuổi” chiếm 36,7% và “Từ 46-55 tuổi” chiếm 19,5%. Trình độ của nhân lực KH&CN cũng có sự chuyển biến rõ rệt theo các nhóm tuổi. Nếu nhóm “Đến 35 tuổi” có số lượng nhân lực trình độ đại học chiếm phần lớn, thì ở nhóm “36-45 tuổi” và “46-55 tuổi” đã thấy rõ nhân lực trình độ trên đại học là chủ đạo. Ngoài ra, có thể thấy ở nhóm tuổi trên 60, người tham gia hoạt động trong các tổ chức KH&CN đa phần có trình độ tiến sĩ. Đây là những chuyên gia với nhiều kinh nghiệm, góp phần cho công tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các tổ chức KH&CN.
Cơ sở dữ liệu trực tuyến: Số người trong các tổ chức KH&CN năm 2023
3. CHI CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Tổng chi ngân sách Thành phố cho hoạt động KH&CN trong năm 2023 là 1.543 tỷ đồng. Trong đó, 37,8% chi cho hoạt động đầu tư phát triển KH&CN, còn lại là chi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN cấp Thành phố (269,931 tỷ đồng) và chi triển khai các dự án, hạng mục ứng dụng KH&CN trên địa bàn Thành phố.
4. NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Trong năm 2023, có 159 nhiệm vụ KH&CN cấp Thành phố đang được triển khai thực hiện. Trong đó, có 33 nhiệm vụ mới được phê duyệt trong năm 2023, 126 nhiệm vụ đã phê duyệt từ các năm trước và đang trong quá trình triển khai thực hiện (trung bình 1 nhiệm vụ KH&CN cấp Thành phố thực hiện trong khoảng thời gian từ 1-2 năm).
Lĩnh vực được nghiên cứu nhiều nhất là khoa học kỹ thuật và công nghệ (29,6%%), kế đến là khoa học y, dược (28,3%); khoa học nông nghiệp (20,8%); khoa học xã hội (19,5%). Lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn có rất ít nghiên cứu.
Xét theo các mục tiêu kinh tế - xã hội, 3 nội dung chiếm phần lớn trong 159 nhiệm vụ KH&CN cấp Thành phố đang thực hiện là: phát triển y tế và bảo vệ sức khỏe con người (chiếm 36,4% tổng số nhiệm vụ KH&CN), phát triển xã hội và dịch vụ (18,2%) và phát triển sản xuất và công nghệ công nghiệp (chiếm 12,1%).
Trong năm 2023, các nhiệm vụ KH&CN mới được phê duyệt chú trọng nhiều đến mục tiêu phát triển y tế và bảo vệ sức khỏe con người nhằm nghiên cứu các giải pháp công nghệ phục vụ ngành y tế.
5. HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Theo báo cáo của các tổ chức KH&CN thuộc quản lý của TP.HCM trong năm 2023, có 32 nhiệm vụ KH&CN hợp tác với các tổ chức nước ngoài thực hiện, với tổng kinh phí hơn 90 tỷ đồng. Phần lớn các nhiệm vụ hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ và khoa học y, dược. Mặc dù có ít nhiệm vụ hơn, nhưng nguồn kinh phí hợp tác trong lĩnh vực y học chiếm đến hơn 77%.
Nhiệm vụ KH&CN hợp tác quốc tế theo hình thức đa phương chiếm phần lớn (55,1%) trong tổng kinh phí thực hiện. Theo nguồn cấp kinh phí, các nhiệm vụ KH&CN chủ yếu từ nguồn nước ngoài (82,1%). Theo cấp nhiệm vụ, chiếm đến 55,1% là kinh phí chi cho các nhiệm vụ KH&CN cấp Thành phố. Theo nước/tổ chức hợp tác, kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN chủ yếu từ các nước/tổ chức như: Hoa Kỳ (32,5%), tổ chức Orbis (27,8%) và Hội đồng Châu Âu (11,9%).
6. DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Tính đến 31/12/2023, TP.HCM có 106 doanh nghiệp KH&CN đã đăng ký giấy phép hoạt động tại Sở KH&CN TP.HCM, trong năm 2023 không có doanh nghiệp KH&CN đăng ký mới. Xét trong giai đoạn từ năm 2009-2023, số lượng đăng ký doanh nghiệp KH&CN tăng và đạt cực đại vào năm 2018 (với 33 doanh nghiệp), tuy nhiên, số lượng đăng ký mới doanh nghiệp KH&CN hiện đang có xu hướng giảm dần hàng năm.
Theo thành phần kinh tế, các doanh nghiệp KH&CN chủ yếu là ngoài nhà nước, chỉ có 1 doanh nghiệp KH&CN của nhà nước là Công ty TNHH MTV Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung. Theo ngành kinh tế, nhiều nhất là các doanh nghiệp KH&CN hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm tỷ lệ 38,7%) và ngành thông tin và truyền thông (chiếm tỷ lệ 28,3%).
Thống kê sơ bộ trong năm 2023, có 124 tổ chức trung gian của thị trường KH&CN đang hoạt động trên địa bàn TP.HCM. Trong đó, có 1 Sàn Giao dịch Công nghệ (do Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN quản lý); 1 Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ (Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN); 26 cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN; 53 trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo (bao gồm 17 tổ chức tăng tốc, 10 không gian làm việc chung và 26 cơ sở ươm tạo kể trên); 69 tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp.
7. TIÊU CHUẨN - ĐO LƯỜNG - CHẤT LƯỢNG
Theo số liệu thống kê từ Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng TP.HCM, tính đến 31/12/2023, TP.HCM có 113 tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; trong năm 2023 có 155.715 phương tiện đo, chuẩn đo lường được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm. Trong đó, phương tiện được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm chiếm phần lớn là các thiết bị đo khối lượng (chiếm tỷ lệ 83,7%), đứng thứ hai là các thiết bị đo nhiệt độ (bao gồm nhiệt ẩm kế tự ghi và nhiệt kế y học điện tử, chiếm tỷ lệ 8,4%), đứng thứ ba là các thiết bị đo áp suất (chiếm tỷ lệ 4,6%).
8. NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ, AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN
Tính đến 31/12/2023, TP.HCM có 3.217 người hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Chia theo lĩnh vực hoạt động, có đến 94,3% nhân lực này làm việc trong các đơn vị cung cấp dịch vụ, 5,4% làm việc trong các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, chỉ 0,3% làm công tác quản lý nhà nước. Chia theo lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử, nhiều nhất là nhân lực làm việc trong ngành y tế (chiếm tỷ lệ 82,1%), 12,8% người làm việc trong ngành công nghiệp và kinh tế kỹ thuật, 3,4% trong ngành nông nghiệp và chỉ 1,7% trong ngành tài nguyên và môi trường và các lĩnh vực khác.
Cũng theo thống kê, tính đến 31/12/2023, TP.HCM có 712 tổ chức tiến hành công việc bức xạ với 1.623 thiết bị bức xạ, 484 nguồn phóng xạ, và đã có 740 giấy phép được cấp để thực hiện công việc bức xạ.
Duy Sang - Lê An